Chia phần – Văn hóa đoàn kết của cộng đồng làng Cơ Tu
Theo những người lớn tuổi Cơ Tu kể lại, trước đây, dân tộc Cơ Tu sinh sống theo hình thức cộng đồng, chọn đất dựng làng nơi cao, gần nguồn nước, nhìn xa, trông rộng, làm chung mái nhà, ăn cùng bếp, rẫy cùng nơi, chăn nuôi cùng đàn và cùng chỗ. Người Cơ Tu chủ yếu sinh sống theo tộc họ trong mái nhà chung, xen lẫn với các tộc họ khác, nhưng gắn bó chặt chẽ; vì thế, giữa tộc họ này với họ kia thường gả nhau con cái, kết nghĩa xui gia (choong ley), con cháu lớn lên hình thành con cô lấy con cậu ngay trong làng, chưa dám gả ra làng khác, hôn nhân cận huyết thống đeo đẳng, dai dẳng suốt nhiều thập kỹ.
Từ những tập tục nảy sinh, hình thành trong cuộc sống đồng bào, đòi hỏi tinh thần đoàn kết ngày càng cao trong dân tộc Cơ Tu, nên việc ăn chung, ở chung, mặc chung được đồng bào coi trọng, xem đây là tài sản quý báu của cộng đồng làng. Chia phần là tập tục thường lệ của làng, từng tộc họ và hộ gia đình, thường diễn ra những khi làng có lễ hội cộng đồng, tộc họ có lễ cưới hỏi hay hộ gia đình có người đến thăm cho trâu, bò, lợn…
Vốn sinh sống theo cộng đồng làng, chịu sự quản lý vô hình bởi các phong tục, tập tục, luật tục của làng, nên mọi sự việc của từng hộ gia đình hay của tộc họ trong làng đều xem như việc chung của làng, được những người có uy tín của làng và dòng tộc trực tiếp bàn thảo, thống nhất. Trong các việc riêng của hộ gia đình như ăn lúa mới, đón rễ thăm nhà, dựng nhà mới,… đều do người bố quyết định điều hành, quản lý, trường hợp người bố mất thì con trai đầu sẽ thay quản lý việc nhà. Trong các lễ nghi của người Cơ Tu không được thiếu con gà, heo; nhà khá giả thì có trâu, bò để hiến tế, cúng bái. Khi các linh vật được cúng, tế, giết xong, thì thành viên còn lại sẽ chế biến thịt, nấu cơm ăn mừng. Những lúc như vậy, người Cơ Tu luôn chú trọng đến việc chia phần cho các thành viên trong gia đình. Khi chia phần, họ thường chia từ người lớn tuổi trước, từ anh chị đã lập gia đình đến đàn em nhỏ chưa rời bú mẹ, không để sót trường hợp nào. Chia phần cũng tùy theo trường hợp cụ thể, nếu ăn mừng lúa mới, thì phần chia gồm thịt và cơm, mỗi người được để hai phần riêng trên lá chuối, gọi đến nhận lần lượt. Đối với việc dựng nhà mới, các phần được chia cũng tương tự như vậy, nhưng với trường hợp con rễ đến thăm nhà gái có mang heo (lợn), thì việc chia phần theo cách khác. Khi con heo đã chín, làm nghi thức cúng bái đã xong thì thịt heo ngoài được chia phần cho các thành viên trong gia đình nhà gái, còn được nhà gái chia cho các hộ trong cùng dòng tộc, không bỏ sót hộ nào. Các hộ nhận được phần chia thịt heo, tùy theo điều kiện tức tốc cho gà, bắt cá biếu lại nhà gái. Nhà gái nhận quà biếu lại cho nhà trai thể hiện lòng cảm ơn, tuy nhiên nhà trai không thể đem về riêng cho phần mình mà lại chia cho chị và em gái trong gia đình đã lấy chồng tỏ lòng thương yêu chị, em gái của mình. Bao giờ, nhà trai cũng phải lo con vật từ bốn chân cho nhà gái như trâu, bò, heo; còn nhà gái thì lo gà, vịt, cá, ếch,… Ếch rừng là con vật quý, có chất dinh dưỡng rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh con, bởi thế nhà gái luôn tìm ếch tươi và để khô trên giàn bếp để biếu chị, em gái của mình.
Với dòng tộc, khi có sự kiện diễn ra ảnh hưởng cao đến các hộ trong cùng tộc họ, thì tộc trưởng, thường là người con trai đầu đứng ra điều hành, trong đó có việc xin, gả cưới con cháu trong tộc họ. Những công việc như vậy, chia phần cũng được đồng bào Cơ Tu duy trì. Khi có người đến xin cưới con cháu trong tộc họ, nếu con gái đồng ý thì nhà trai sẽ lập tức giết heo đãi họ nhà gái, thịt heo được chia phần cho những người không đến chứng kiến và cùng ăn chung trong đêm hỏi vợ cho nhà trai. Sáng hôm sau, thịt heo được gia đình nhà gái mang đến cho các hộ gia đình trong cùng tộc họ. Đến khi tổ chức đám cưới, cả gia đình nhà trai và nhà gái đều có phần chia thịt, ẩm thực khác nhau. Nhà gái nhận thịt, của cải từ nhà trai sẽ đem chia lại một phần cho hộ trong dòng tộc và những người khác đã góp của giúp gia đình nhà gái đem sản vật đến nhà trai. Nhà trai khi nhận sản vật từ nhà gái sẽ biếu lại cho các hộ thuộc dòng họ và các anh, em rễ của mình. Hình thức chia phần trong cưới hỏi thường theo một quy chuẩn riêng do tập tục truyền thống để lại, được dân tộc Cơ Tu duy trì đến ngày nay.
Ở làng Cơ Tu thường diễn ra nhiều lễ hội theo các hình thái tổ chức khác nhau, nhưng đều do tập tục và tín ngưỡng chi phối. Người Cơ Tu có tục săn bắt và bắn thú rừng tập thể. Biết khu vực nơi có thú rừng, nhất là heo rừng, những người có kinh nghiệm sẽ bàn bạc, trao đổi, thống nhất kỹ lưỡng từng công việc cụ thể, tổ chức khoanh vùng, rào chắn cẩn thận và cho người vào trong trực tiếp săn bắn thú rừng. Thành quả của việc săn bắt tập thể cho số lượng rất nhiều, từ năm đến mười con hoặc hơn thế nữa. Đó là sản vật chung của làng. Thay vì như tổ chức tại moong của tộc họ hay mái nhà của hộ gia đình, Gươl là nơi được đồng bào mang thú rừng về để già làng cúng, làm thịt và chia phần. Trai làng là những người được phân công đảm nhiệm việc làm thịt thú rừng, phụ nữ lo việc nấu nướng và chuẩn bị các vật dụng phục vụ ẩm thực ở gươl. Thịt thú rừng được nấu chín, đầu và một số nội tạng ngon được già làng cúng, dâng thần linh trong gươl, khi xong phần lễ cúng, thịt được chia phần trên lá chuối rừng đã được xé xếp ngay ngắn, sạch sẽ. Phần chia thịt được giao cho một vài người đảm nhiệm, có phần giám sát của trưởng thôn, đọc đủ số lượng nhân khẩu ở thôn để chia phần cho chính xác. Sau khi kiểm tra lại lần nữa, trưởng thôn gọi từng hộ đến nhận khẩu phần của mình, mang về nhà giao cho các thành viên trong hộ. Trong việc chia phần, đồng bào không bỏ sót thành viên nào, từ trẻ sơ sinh đến các cụ già lớn tuổi, thậm chí cả người đi làm ăn xa vẫn có phần đầy đủ. Trường hợp thiếu sót trong việc chia phần thì trưởng thôn sẽ xin ý kiến già làng để lấy thịt chung hoặc lấy phần của hộ gia đình mình chia lại cho thành viên chưa có, không để mất công bằng giữa các hộ gia đình.
Trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, ngoài chia phần theo cộng đồng làng, dòng tộc và hộ gia đình, thì còn chia phần theo nhóm. Theo đó, nhóm những người lớn tuổi, thường các cụ già, già làng ngồi giữa gươl, hát lý, đối đáp nhau; nhóm phụ nữ ngồi góc gươl, gần bếp để tiện việc nấu nướng; nhóm thanh niên trai làng ngồi góc còn lại để phục vụ các cụ; trẻ em được bố trí ở moong hoặc mái nhà gần gươl. Việc tổ chức ăn uống được diễn ra cùng lúc và thường kéo dài đến khuya bởi câu hát lý, nói lý, đối đáp của các vị già làng, người lớn tuổi và tiếng trống chiêng rộn rã của các chàng trai, cô giá xinh đẹp của làng.
Từ những sự kiện chung của làng, dòng tộc, hộ gia đình, thì tục chia phần bao giờ cũng được đồng bào Cơ Tu quý trọng. Trong quan niệm chung của người Cơ Tu, tài sản sẵn có xung quanh làng như chim muông, cá, thú đều của chung, ai bắt được đều mang đầu và chia phần cúng bái trên gươl. Những hộ và thành viên gia đình không chấp hành luật tục chung của làng thì xem như tự chia rẽ và tách ra khỏi công việc chung của làng. Bởi thế, mỗi một thành viên của làng khi săn bắt, bắn thú rừng đều tự giác mang báo với làng, đem đầu về gươl để cúng.
Đoàn kết cộng đồng làng là sức mạnh tập thể được duy trì từ những việc làm và hành động rất nhỏ của các thành viên trong các hộ gia đình và từng dòng tộc. Chia phần, không đòi hỏi nhiều hay ít, mà có phần là niềm tin để người Cơ Tu tiếp thêm sức mạnh đoàn kết từ một đứa trẻ cho đến người già lớn tuổi. Nhờ vậy, các công việc chung của làng dù nặng nhọc đến mấy cũng được triển khai chặt chẽ, đồng bộ và hiệu quả, chẳng cần một giấy mực ghi chép hành chính phân công rõ ràng…
Tác giả: Bríu Quân