Phát triển du lịch cộng đồng theo xu hướng tăng trưởng xanh và bền vững
Lào Cai. Ảnh: TITC
Đại dịch COVID-19 và sự biến đổi khí hậu nhanh chóng đã gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến thế giới trên nhiều lĩnh vực và tác động nặng nề đến lĩnh vực du lịch. Đây cũng là cơ hội để thế giới đánh giá lại mô hình tăng trưởng gắn với xu thế tăng trưởng xanh, phát triển bền vững đang trở thành mục tiêu của nhiều quốc gia đang hướng tới. Hành vi tiêu dùng của du khách trong đại dịch COVID-19 và thời gian tới đang có những thay đổi, quan tâm hơn đến vấn đề an toàn, sức khoẻ và sản phẩm du lịch xanh, thân thiện môi trường. Cùng với đó, nhu cầu hướng nội, hướng tới những chương trình du lịch sinh thái có sự tham gia của cộng đồng đã và đang được nhiều du khách ưa chuộng. Ngày nay, du khách thường chọn những khu vực có tiềm năng đặc sắc về thiên nhiên và văn hóa, trải nghiệm du lịch tới những bản làng xa xôi, nơi có đông đồng bào dân tộc sinh sống, gắn với cảnh quan hoang sơ, những phong tục tập quán lâu đời được lưu truyền, chưa mai một trong cuộc sống hiện đại.
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng đe dọa trực tiếp đến sinh kế của người dân, định hướng phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh đang được nhiều quốc gia áp dụng. Trong đó, việc phát triển du lịch cộng đồng theo xu hướng này cũng không phải là ngoại lệ. Phát triển du lịch cộng đồng theo xu hướng tăng trưởng xanh sẽ giúp cho người dân đảm bảo cuộc sống gắn với sinh kế vốn có trên chính vùng đất của họ, nền kinh tế sẽ phát triển có tính ổn định và bền vững. Đây có thể xem là định hướng giải quyết được bài toán phát triển kinh tế phù hợp với thực tế thích ứng với biến đổi khí hậu đối với Việt Nam.
Du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. Hầu hết các quan niệm về du lịch cộng đồng đều cơ bản đồng ý rằng sự tham gia của cộng đồng và trao quyền cho cộng đồng là điều cốt lõi của loại hình du lịch này. Quan niệm này vẫn đang được coi là đồng nghĩa với du lịch sinh thái, du lịch nông thôn…, mặc dù về bản chất chúng là khác nhau. Tuy nhiên, đây là loại hình du lịch do cộng đồng dân cư quản lý. Đây là điểm khác biệt riêng có của du lịch cộng đồng khi so sánh với những loại hình du lịch khác. Với mục tiêu hướng đến sự phát triển bền vững, du lịch cộng đồng được xem là một trong những công cụ hữu hiệu góp phần cải thiện sinh kế cho người dân địa phương, đồng thời giúp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa bản địa cũng như nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên gắn với cộng đồng điểm đến. Vì thế, du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được quan tâm đầu tư phát triển tại nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn của Việt Nam.
Trong hoạt động du lịch cộng đồng, cộng đồng địa phương được tham gia trực tiếp trong việc hoạch định, xây dựng, triển khai và quản lý các hoạt động du lịch nhằm phát triển cộng đồng và bảo tồn, khai thác tài nguyên du lịch bền vững, đồng thời cộng đồng phải được hưởng phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch, là người kiểm soát các tài nguyên du lịch và hỗ trợ khách du lịch có cơ hội tìm hiểu và nâng cao nhận thức của họ khi có cơ hội tiếp cận hệ thống du lịch cộng đồng tại không gian sinh sống của cộng đồng. Khách du lịch là tác nhân bên ngoài, là tiền đề mang lại lợi ích kinh tế và sẽ có những tác động nhất định kèm theo việc thụ hưởng các giá trị về môi trường sinh thái tự nhiên và văn hóa khi đến với một cộng đồng văn hóa cụ thể. Cộng đồng địa phương sẽ nhận được lợi ích về mặt kinh tế, mở rộng tầm hiểu biết về đặc điểm, tính cách của du khách cũng như cơ hội để nắm bắt thông tin bên ngoài từ khách du lịch, đồng thời cộng đồng địa phương ngày càng được tăng cường được khả năng tổ chức, vận hành và thực hiện các hoạt động, xây dựng các sản phẩm phục vụ khách du lịch, phát huy vai trò làm chủ của mình.
Phát triển du lịch cộng đồng
Phát triển du lịch cộng đồng là quá trình thay đổi theo hướng tiến bộ về mọi mặt của du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo trong môi trường cộng đồng, bao gồm sự thay đổi cả về lượng và về chất của du lịch cộng đồng ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia. phát triển du lịch cộng đồng cũng được hiểu là sự tăng trưởng của du lịch cộng đồng gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế liên quan đến du lịch cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hoá và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư. Phát triển du lịch cộng đồng luôn hướng tới mục tiêu kép về kinh tế và xã hội, vừa mang lại thu nhập, việc làm cho cộng đồng dân cư và vừa góp phần đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn văn hóa, bảo vệ môi trường.
Có thể thấy, du lịch cộng đồng dù đã phát triển từ khá lâu nhưng vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương các cấp cũng như của cộng đồng, từ trung ương tới địa phương chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, định hướng, chiến lược phát triển rõ ràng nằm trong quy hoạch phát triển du lịch. Hoạt động du lịch cộng đồng chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao, gây nhiều hệ lụy, dẫn đến xung đột bền vững môi trường, sản phẩm du lịch cộng đồng chưa có nét đặc trưng, chưa có sức hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Vì thế, cần đưa ra những cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển loại hình du lịch cộng đồng, góp phần tăng thu nhập cho người dân nông thôn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống tại các vùng nông thôn cùng với truyền thống văn hóa lịch sử gắn liền với sản xuất nông nghiệp là chủ đạo, nên việc khai thác các giá trị du lịch gắn với nông nghiệp, nông dân và nông thôn sẽ giúp cải thiện đời sống người dân nông thôn, khôi phục, bảo tồn và gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống địa phương, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch hiện có. Đồng thời xây dựng mối liên kết bền vững giữa cộng đồng, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân liên quan đến phát triển du lịch cộng đồng, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Xu hướng tăng trưởng xanh và bền vững
Tăng trưởng xanh không chỉ là sự lồng ghép bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế, mà còn đề cập đến sự phát triển cân bằng, hài hòa giữa các mục tiêu của các hoạt động trên mọi bình diện. Hiện nay, tăng trưởng xanh được coi là mô hình phát triển mới, nhiều nước và vùng lãnh thổ ủng hộ và hướng theo. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới”.
Ở châu Âu, Đức được xem là quốc gia tiên phong về các chính sách tăng trưởng xanh. Từ năm 2009, bằng nhiều biện pháp và hành động mạnh mẽ, nước này đã giảm 23% lượng khí thải CO2 so với mức của năm 1990; tiêu thụ năng lượng từ năng lượng tái tạo tăng gấp năm lần từ 1990 đến 2010; và, nước này có công suất năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới. Năm 2010, Chiến lược tăng trưởng xanh của Đức được xây dựng. Đặc biệt, từ tháng 5/2012-12/2014, một Dự án Mô hình Tăng trưởng xanh của quốc gia đã được xây dựng.
Tại Pháp, các động thái đối với xu hướng tăng trưởng xanh cũng được thực hiện nhiều năm qua. Từ năm 2010, nước này đã tiến hành lập Chiến lược cho nền kinh tế xanh. Một trong những mục tiêu của chiến lược mới là làm cho nhiều sản phẩm và dịch vụ bền vững có thể tiếp cận được với nhiều người hơn và tăng gấp đôi vào năm 2012 khi bán sản phẩm mang nhãn hiệu sinh thái. Đặc biệt, tháng 7/2015, Quốc hội nước này đã chính thức thông qua một cột mốc mới trong luật khí hậu, đó là Chuyển đổi năng lượng cho luật tăng trưởng xanh (ETL). Theo đó, mục tiêu đưa ra đến năm 2050, lượng khí thải carbon sẽ giảm 75%, trong khi tổng mức sử dụng năng lượng ở Pháp phải giảm một nửa. Cho đến nay, đây là mục tiêu hiệu quả mạnh mẽ nhất trên thế giới. Các mục tiêu mới cũng được đặt ra là giảm mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, loại bỏ hạt nhân và tăng cường năng lượng tái tạo.
Ở châu Á, từ năm 2003, Nhật Bản đã ban hành “Chiến lược năng lượng sinh khối” và xây dựng các mô hình đô thị thông minh, đô thị xanh và sinh thái. Không dừng ở đó, đến năm 2008, Chính phủ nước này lại tiếp tục đưa ra “Kế hoạch hành động cho một xã hội carbon thấp”, trong đó đặt trọng tâm vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo như sản xuất năng lượng mặt trời; phát triển các phương tiện vận tải không dùng xăng, thiết kế thế hệ xe mới sử dụng năng lượng điện; thực hiện lối sống giảm khí thải CO2, giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và tiết kiệm năng lượng để hướng tới giảm khí nhà kính, bảo vệ nền kinh tế và người dân khi giá năng lượng tăng. Cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc cũng quan tâm và bắt đầu thực hiện mô hình tăng trưởng xanh từ năm 2008. Hai năm sau, nước này đã công bố “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp xanh”; trong đó, xác định một kế hoạch chi tiết các chính sách tăng trưởng xanh, tạo ra mô hình phát triển mới của quốc gia. Mục tiêu chung của chiến lược là trở thành nền kinh tế tăng trưởng xanh lớn thứ 7 thế giới vào năm 2020 và thứ 5 về năng lượng xanh vào năm 2050. Ngoài ra, nhiều quốc gia khác ở châu lục như Singapore, Thailand,… cũng đã có những bước đi quan trọng của mình trong việc tiếp cận và vận hành theo xu hướng tăng trưởng xanh.
Xu thế tăng trưởng xanh trở thành một lựa chọn ưu tiên và là mục tiêu mà nhiều quốc gia đang hướng đến. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động lớn và bị đe doạ nghiêm trọng từ các vấn đề môi trường. Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam sớm xác định là yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế. Việt Nam tiếp tục khẳng định cam kết quốc tế thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu. Trước những bối cảnh mới trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.
Đối với lĩnh vực du lịch, trước sự tác động mạnh mẽ của dịch bệnh COVID-19 và hành vi tiêu dùng của khách hàng đang có những thay đổi gắn với xu thế đổi mới, sáng tạo và tăng trưởng xanh góp phần vào phát triển bền vững lĩnh vực du lịch phải được tiếp tục quan tâm, xem xét để thích ứng trong tình hình mới. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và trong nước để xây dựng mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh gắn với đặc trưng vùng miền góp phần vào chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và các chiến lược thành phần mà Việt Nam đã cam kết.
Đoàn khảo sát của Tổng cục Du lịch tại Bình Liêu, Quảng Ninh. Ảnh: TITC
Phát triển du lịch bền vững gắn với tăng trưởng xanh
Đối với lĩnh vực du lịch, năm 2012, Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) đã phối hợp nghiên cứu và công bố báo cáo liên quan đến phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh chỉ rõ 6 thách thức lớn mà du lịch thế giới phải đối mặt: 1) Năng lượng và hiệu ứng nhà kính; 2) Tiêu dùng nước; 3) Quản trị rác và chất lượng nước; 4) Đa dạng sinh học; 5) Sự giảm thiểu của đa dạng sinh học; và 6) Quản trị xây dựng và di sản văn hóa. Sáu thách thức này buộc du lịch thế giới phải phát triển theo hướng tăng trưởng xanh với mục tiêu là phát triển du lịch bền vững.
Để phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, các quốc gia phải chú trọng đến: 1) Tiêu dùng trong du lịch; 2) Sự hưởng lợi của người lao động du lịch và liên quan đến du lịch; 3) Lợi ích về môi trường; 4) Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; và 5) Mô hình hóa phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh. Muốn vậy cần: 1) Quan tâm nhiều hơn đến khu vực tư nhân; 2) Phát huy vai trò của chính phủ trong quy hoạch phát triển du lịch; 3) Hoạch định chính sách tài chính và sử dụng công cụ kinh tế; 4) Đầu tư tài chính cho phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh; 5) Đầu tư cho các địa phương và khu vực có hoạt động du lịch theo hướng tăng trưởng xanh.
Đối với Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030" tại Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22/01/2020 là những định hướng cụ thể về phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, với nội dung chính sau:
Về quan điểm: Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành và lĩnh vực khác, góp phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Phát triển du lịch bền vững và bao trùm, trên nền tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát triển du lịch văn hóa, gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả; đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển đồng thời du lịch quốc tế và du lịch nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch; tăng cường liên kết nhằm phát huy lợi thế tài nguyên tự nhiên và văn hóa; phát triển đa dạng sản phẩm du lịch, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam.
Về mục tiêu: Đến năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, phấn đấu thuộc nhóm ba quốc gia dẫn đầu về phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam Á và 50 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, trong đó tất cả 14 tiêu chí năng lực cạnh tranh du lịch đều tăng, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững. Đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững. Việt Nam trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mục tiêu phát triển bền vững.
Về giải pháp: 1) Tiếp tục đổi mới nhận thức, tư duy phát triển du lịch. 2) Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển du lịch. 3) Phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. 4) Phát triển nguồn nhân lực du lịch. 5) Phát triển và đa dạng hóa thị trường khách du lịch. 6) Phát triển sản phẩm du lịch. 7) Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch và hợp tác, hội nhập quốc tế về du lịch. 8) Ứng dụng khoa học, công nghệ. 9) Quản lý nhà nước về du lịch.
Năm 2013, Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được sự hỗ trợ của Cơ quan Hợp tác phát triển Quốc tế Tây Ban Nha (AECID) xây dựng các Bộ tiêu chí Nhãn Du lịch xanh cho 4 loại cơ sở dịch vụ du lịch, gồm: 1) Nhà hàng phục vụ khách du lịch; 2) Cửa hàng mua sắm phục vụ khách du lịch; 3) Điểm dừng chân phục vụ khách du lịch; 4) Điểm tham quan du lịch. Tài liệu là kết quả khảo sát, nghiên cứu thực địa ở nhiều cơ sở dịch vụ du lịch, để xuất cách thức, quy trình đánh giá để cấp Nhãn Du lịch xanh cho các cơ sở dịch vụ du lịch kể trên. Đây là các định hướng, hướng dẫn cơ bản để các nhà đẩu tư, nhà quản lý và nhân viên các cơ sở dịch vụ du lịch áp dụng nhằm đưa cơ sở trở thành một điểm du lịch xanh, góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, thúc đẩy phát triển du lịch Việt Nam theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bển vững.
Trong năm 2022, Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng Đề án phát triển du lịch cộng đồng tại Việt Nam. Mục tiêu của đề án nhằm: 1) Thống nhất nhận thức và quan điểm về phát triển du lịch cộng đồng tại Việt Nam, gắn phát triển du lịch cộng đồng với nâng cao đời sống người dân, góp phần đẩy mạnh phong trào xây dựng kinh tế xã hội nông thôn; 2) Đánh giá thực trạng tình hình phát triển du lịch cộng đồng ở Việt Nam để phát hiện những vấn đề cần giải quyết trong khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị để nâng cao mức sống cho đồng bào các dân tộc gắn với phát triển du lịch cộng đồng, trong đó ưu tiên các dân tộc thiểu số, miền núi và ít người. Từ đó xây dựng căn cứ pháp lý, cơ chế chính sách thu hút đầu tư, khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng, cơ chế quản lý, phối hợp các bên tham gia trong hoạt động du lịch cộng đồng; 3) Đề xuất giải pháp đưa sản phẩm du lịch cộng đồng trở thành một sản phẩm hoàn chỉnh, chủ đạo trong hệ thống sản phẩm của du lịch Việt Nam, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cộng đồng gắn chặt với xây dựng nông thôn mới, gắn với chương trình OCOP, gắn phát triển du lịch cộng đồng với chương trình xóa đói giảm nghèo, gắn với chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, biên giới, ven biển và hải đảo, góp phần đa dạng hóa ngành nghề cho cộng đồng dân cư tại chỗ, cải thiện sinh kế cho người dân, tiến tới mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Thời gian triển khai dự án trong giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Một số khuyến nghị phát triển du lịch cộng đồng theo xu hướng tăng trưởng xanh và bền vững tại Việt Nam
Nhận thức được vấn đề tăng trưởng xanh là một xu hướng phát triển bền vững và mang đến nhiều lợi ích hiện nay, các cơ quan, tổ chức và cá nhân ở Việt Nam thời gian qua cũng đã từng bước có sự quan tâm, tiếp cận dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầu tiên và quan trọng nhất phải kể đến chính là việc Chính phủ đã cho xây dựng và ra quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2013-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 vào năm 2012. Điều này cho thấy một sự đánh giá quan trọng mang tính cấp thiết của Nhà nước đối với một xu hướng phát triển đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới. Qua đó, tạo nên cơ sở nền tảng thuận lợi cho việc triển khai, vận dụng phương thức phát triển tiến bộ này vào trong thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù đã có những cố gắng, nhưng do thời gian quá ngắn và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, nên việc xanh hóa nền kinh tế ở Việt Nam nhìn chung gần như chỉ mới dừng lại ở những bước đi đầu tiên và còn rất nhiều khó khăn, hạn chế. Phần lớn vẫn đang là những chính sách chung và sự kêu gọi, khuyến khích từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng, chứ chưa thực sự trở thành những hoạt động thực tiễn cụ thể và mang tính sâu rộng.
Từ các định hướng tăng trưởng xanh trên thế giới và Việt Nam, những công trình và quy định liên quan trực tiếp đến phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh đã bao quát nội hàm, ý nghĩa, mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, giải pháp, cách thức thực hiện..., là cơ sở pháp lý thúc đẩy tăng trưởng xanh trong phát triển du lịch Việt Nam. Quá trình thực hiện nên triển khai một cách hài hòa và hợp lý, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển của Việt Nam nói chung và Du lịch Việt Nam nói riêng, cần có có những định hướng cụ thể để điều chỉnh dần dần quá trình phát triển, tránh gây ra những vấn đề xã hội do sự chuyển đổi này gây ra; để du lịch trở nên thân thiện môi trường hơn, giảm bớt việc dựa vào các yếu tố không bền vững và tăng dần các yếu tố bền vững (dựa vào vị trí địa chính trị, kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hóa, truyền thống, con người...) cho sự phát triển du lịch, phát huy tốt vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn.
Để du lịch cộng đồng phát triển theo xu hướng tăng trưởng xanh và bền vững, xin đề xuất một số khuyến nghị sau:
1) Phát triển năng lượng tái tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong hoạt động du lịch: Tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, khí sinh học với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại và thúc đẩy việc sử dụng các nguồn năng lượng này để hỗ trợ sinh kế, sản xuất và toàn bộ nền kinh tế, trong đó có kinh tế du lịch.
2) Kiểm soát phát thải khí nhà kính từ các cơ sở du lịch: Kiểm soát phát thải khí nhà kính từ 4 lĩnh vực chính là cơ sở lưu trú, lữ hành, cơ sở vui chơi giải trí và các điểm đến du lịch. Phát thải có thể do các quá trình xây dựng và vận hành các công trình du lịch, giao thông du lịch, phát điện phục vụ du lịch, sử dụng hóa chất trong các hoạt động sản xuất dịch vụ du lịch cần phải được kiểm soát chặt chẽ.
3) Kiểm soát phát sinh rác thải, chất thải và tái sử dụng cho sản xuất du lịch xanh hơn: Để tăng cường đóng góp của ngành Du lịch, đã có chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch đến năm 2030. Phát triển du lịch, cùng với các hoạt động khác trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, sẽ gia tăng chất thải rắn và lỏng, tiếng ồn và nếu không được kiểm soát tốt, sẽ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người. Mục tiêu của định hướng này là kiểm soát việc xả thải và tăng cường xử lý các loại chất thải khác nhau trong du lịch và các ngành liên quan du lịch.
4) Khuyến khích các hệ thống sử dụng đất bền vững và thông minh với biến đổi khí hậu: Phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn đã được ghi nhận là một trong những chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất bền vững (hiệu quả sử dụng tài nguyên cao) và có khả năng đem lại thu nhập cao và ổn định cho tất cả các chủ thể tham gia. Phát triển chuỗi giá trị sản phẩm du lịch trong nông nghiệp như vậy là phù hợp trong ứng phó với biến đổi khí hậu trong tương lai.
5) Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nước và đa dạng sinh học và tài nguyên văn hóa: Định hướng này nhằm thúc đẩy hơn nữa việc bảo vệ tài nguyên du lịch (cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa) và giảm phát thải trong các hoạt động liên quan, dừng việc chuyển đổi đất rừng sang canh tác nông nghiệp, đất ở hoặc đất phục vụ các dự án phát triển, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gắn với sức chứa môi trường, trong đó có môi trường du lịch. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, tài nguyên du lịch văn hóa cần được chú trọng hơn nữa, nhất là trong tiếp thu chọn lọc tinh hóa văn hóa, trong đó có văn hóa du lịch thế giới.
6) Tăng cường tiếp cận thị trường và nâng cao chất lượng các sản phẩm hàng hóa du lịch chính và sản phẩm du lịch thay thế: Một trong những khía cạnh cần quan tâm trong tăng trưởng kinh tế xanh nói chung và phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh nói riêng, là phát triển thông qua nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị thu được trên một đơn vị sản phẩm cả ở thị trường du lịch nội địa và du lịch quốc tế. Hiện nay giá trị gia tăng của các sản phẩm du lịch chưa cao, nên giá bán sản phẩm trên thị trường không tốt và sức cạnh tranh trên thị trường không cao. Hoạt động kinh doanh du lịch đã phát triển nhanh đến năm 2019, nhưng chủ yếu là khai thác giá trị tài nguyên du lịch. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, cần đẩy mạnh phát triển du lịch thông minh. Trong định hướng này, việc tăng cường chất lượng sản phẩm và quá trình sáng tạo thông minh thông qua việc tham gia các chứng chỉ xanh cần phải được nhấn mạnh. Ngoài ra, định hướng cũng bao gồm phát triển các thương hiệu sản phẩm du lịch chất lượng cao, sản phẩm du lịch đặc thù để tăng giá trị thương mại.
7) Phát triển du lịch xanh và bền vững: Dịch vụ là ngành đóng góp khá lớn vào GDP của cả nước và GRDP của các địa phương, trong đó du lịch đóng vai trò quan trọng và có tiểm năng lớn. Việt Nam từ lâu đã khẳng định có thế mạnh du lịch nhờ cảnh quan đẹp, khí hậu thuận lợi và các di sản văn hóa phong phú, lòng hiếu khách và tính thân thiện của cư dân, tuy nhiên vẫn có nhiều thách thức mà ngành Du lịch cần giải quyết, trong đó có việc phát triển du lịch bền vững trong tất cả các loại hình du lịch, xây dựng và phát triển văn hóa du lịch. Điều cần thiết là xây dựng các điểm đến du lịch xanh-sạch-đẹp và an toàn-thân thiện để thu hút du lịch; đồng thời với việc xây dựng một quy tắc ứng xử du lịch văn minh để “lấy lòng” du khách và các nhà đầu tư, vận động họ tôn trọng môi trường và văn hóa bản địa. Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các hoạt động du lịch với một cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng rất cần đặc biệt quan tâm để phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, đạt mục tiêu bền vững.
8) Khuyến khích hình thành lối sống xanh và tiêu dùng bền vững trong du lịch: Phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh cần có sự hỗ trợ bởi lối sống xanh và tiêu dùng bền vững của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động du lịch (khách du lịch, tất cả người dân, các cộng đồng địa phương, các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu, các nhà truyền thông, chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước) và các hoạt động liên quan đến du lịch. Các nhóm can thiệp ưu tiên trong định hướng này chủ yếu là quản lý sử dụng tài nguyên du lịch (cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa), nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của kiểm soát chất thải và áp dụng các mô hình tiêu dùng bền vững, và phát triển các công nghệ xanh, các công nghệ tiếp thị xanh, để giảm phế thải và tăng cường sản lượng du lịch trên cơ sở sức chứa bền vững.
9) Tạo môi trường thuận lợi để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, trong đó có du lịch xanh: Việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, du lịch xanh không diễn ra một cách tự nhiên: một loạt rào cản cần được gỡ bỏ và đầu tư vào các ngành kinh tế xanh và các dự án kinh tế xanh, trong đó có du lịch, phải trở nên hấp dẫn với các bên liên quan, gồm cả khối tư nhân và khối nhà nước, công - tư. Nếu kết hợp hài hòa các biện pháp thúc đẩy về tài chính, chính sách, công nghệ và cơ sở hạ tầng, thì nền kinh tế xanh, du lịch xanh sẽ xuất hiện do kết quả của các hoạt động. Một số biện pháp chỉ có thể được thực hiện trong phát triển du lịch tăng trưởng xanh cấp quốc gia, nhưng nhiều biện pháp có thể được thực hiện ở cấp thấp hơn. Do đó, nên đưa ra các chính sách cấp trung ương và địa phương, thiết kế trên các tiêu chí: hiệu quả cao, chi phí phù hợp, có khuyến khích cho việc áp dụng và tuân thủ, có khả năng thích ứng với các biến động nhất định, và cung cấp thông tin rõ ràng, minh bạch và đáng tin cậy cho các nhà đầu tư.
Thay cho lời kết
Để du lịch cộng đồng phát triển bền vững, cần phải phát huy được yếu tố tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, chú trọng tăng cường bảo tồn văn hóa. Du lịch cộng đồng được biết đến như một công cụ giúp xóa đói giảm nghèo và chia sẻ lợi ích giữa các địa phương, các vùng miền nhờ quá trình tạo sinh kế hoặc chuyển đổi sinh kế của người dân từ hoạt động nông, lâm, thủ công nghiệp sang du lịch dịch vụ. Thông qua đó, góp phần làm giảm thiểu cho nhóm cộng đồng yếu thế và làm tăng tính bền vững trong việc sử dụng, khai thác các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa. Bên cạnh đó, du lịch cộng đồng cũng được xem là một trong những loại hình du lịch mang lại nhiều lợi ích cho người dân địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, bảo tồn và phát huy những nét văn hóa bản địa. Phát triển du lịch cộng đồng còn góp phần tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, tăng cường khả năng thu hút khách du lịch đến khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch cộng đồng với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp cùng với các di tích lịch sử. Nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, con người hoà đồng thân thiện, là điểm đến của nhiều du khách. Chính vì vậy, việc phát triển du lịch theo xu hướng tăng trưởng xanh và bền vững thực sự cần thiết và đây cũng là định hướng lâu dài trong điều kiện đầy biến động của môi trường.
Vấn đề là cần có cơ chế chính sách cụ thể từ phía nhà nước để khơi dậy sức dân, để phát triển du lịch theo mô hình tăng trưởng xanh gắn với cộng đồng trở thành một hướng phát triển bền vững của du lịch Việt Nam. Theo các chuyên gia, việc phát triển du lịch cộng đồng theo hướng tăng trưởng xanh là phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu khám phá của đông đảo du khách. Tuy nhiên, muốn du lịch cộng đồng phát triển cần giữ nguyên gốc, nguyên sơ, chất phác chân thực của văn hoá bản địa, đó là giá trị cốt lõi của cộng đồng, không để đánh mất nó. Phát triển du lịch cộng đồng thì phải có trách nhiệm với xã hội với chính cộng đồng đó. Để phát triển kinh tế địa phương, tôn trọng những giá trị bản địa, thì du lịch có trách nhiệm sẽ là giải pháp để phát triển du lịch đúng hướng và bền vững. Chỉ khi nào người dân thực sự được hưởng lợi từ sự phát triển du lịch của địa phương, lúc đó du lịch cộng đồng mới phát triển bền vững, góp phần tích cực vào việc xóa đói giảm nghèo./.
TS. Đoàn Mạnh Cương, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành