Múa Ấn Độ: Một đặc trưng ngôn ngữ cơ thể
Cử chỉ, điệu bộ các động tác múa mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Ðó là ngôn ngữ của cơ thể. Theo A-nan-đa Cô-ma-ra-xoa-mi - một chuyên gia nổi tiếng về nghệ thuật Ấn Ðộ, nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ là dựa trên những chuyển động xúc cảm và tự nhiên. Ví như: nhãn cầu chuyển động vòng quanh biểu lộ sự phẫn nộ, ánh mắt khắc khoải biểu lộ tình yêu, lông mày dướn lên biểu lộ sự nghi ngờ, lỗ mũi phình rộng biểu lộ sự tức giận, gò má sệ xuống biểu lộ nỗi buồn, vành môi sệ xuống biểu lộ sự ghen tị... Bản thân cơ thể người cũng có khả năng biểu lộ theo nhiều cách. Người vũ công luôn tìm cách đạt được tư thế hoàn hảo nhất để truyền tải được ý nghĩa nhiều nhất. Một số nhà nghiên cứu múa Ấn Ðộ của châu Âu so sánh múa châu Âu với múa Ấn Ðộ cho rằng, nghệ thuật múa châu Âu "rất sơ đẳng" so với "văn hóa diễn cảm bằng cơ thể" của múa Ấn Ðộ.
Múa Ấn Ðộ được phân làm ba kiểu: múa mạnh mẽ của đàn ông (Tandava), múa duyên dáng nữ giới (Lasya) và múa kết hợp cả hai (Pindibandha). Có sáu trường phái múa chính: Bharatnatyam, Kathakali, Manipuri, Kucbipudi, Odissi và Kathak. Nhưng tất cả đều tuân theo một nguyên tắc chính là các cử chỉ, điệu bộ của mắt, mũi, mồm, tay (bàn tay, ngón tay), chân (bàn chân, ngón chân), bụng, ngực, mông... đều phải biểu lộ ngôn từ của tình cảm con người.
Trong vũ ba-lê của phương Tây, múa chủ yếu đựa trên những động tác khoáng đạt và có rất ít biểu hiện trên khuôn mặt. Trái lại, người vũ công Ấn Ðộ thì biểu lộ rất nhiều trạng thái tình cảm qua khuôn mặt. Quả thật, không một loại hình múa nào lại chú trọng tới ngôn ngữ cơ thể như múa Ấn Ðộ.