Không gian văn hóa Hồ Tây
Hồ Tây vạt nước mênh mang. Ngày xuân muôn hồng ngàn tía khắp các làng cổ ven hồ, mùa hạ gió hồ làm dịu cơn nồng cho cả một khu vực ven đô, mùa thu sương khói lung linh huyền ảo, mùa đông một vẻ đẹp tiêu sơ, mặt nước vắng lặng, đôi ba lá thuyền mỏng mảnh ẩn hiện trong lớp lớp mưa phùn đặc trưng xứ Bắc.
Hẳn do vậy mà Cụ Tam nguyên Yên Đổ có một bài ca trù riêng về Hồ Tây:
Thuyền lan nhè nhẹ
Một mái chèo đủng đỉnh dạo Hồ Tây
Sóng rập rờn sắc nước lẩn chiều mây
Bát ngát nhẽ, khéo ghẹo người du lãm
Hồ Tây thực sự đã ghẹo bao du khách, vì vẻ đẹp của cỏ cây hoa lá và mặt nước mây trời đổi thay từng giờ, từng lúc, vì những huyền thoại bao phủ lên các miếu cổ, chùa xưa, lại còn vì cả sự gợi cảm của các địa danh địa điểm Thiên Phù, Trâu Vàng, Chùa Hang, Xác Cáo,… Theo thuật phong thủy, xung quanh hồ là cả một vùng đất mang nhiều hình dáng các vật linh: phía đền Quan Thánh là đất hình Phượng, phía Yên Ninh là hình Rồng, phía Quảng Bá là hình Rùa, phía Quán La là hình Ngựa, phía Ngũ Xã là hình Lân. Tất cả các “linh vật” này đều chầu về Hồ Tây. Hồ Tây là tâm điểm của một vùng “linh địa”.
Chả thế mà quanh hồ hiện nay có 22 di tích được Nhà nước xếp hạng và được cả nước biết tiếng: Quan Thánh, Trấn Quốc, Đồng Cổ, phủ Tây Hồ… Ở 22 di tích này có nhiều văn vật có giá trị: 102 bia đá, 165 câu đối, 140 bức hoành phi, 18 quả chuông cổ, 60 sắc phong thần, trên 300 pho tượng bằng đồng, gỗ, đá,… một cái vốn văn hóa vật thể quý báu.
Quanh hồ còn có một dải làng nghề phục vụ cho sinh hoạt đô thành: dệt lụa, dệt lĩnh, làm giấy, trồng hoa, đúc đồng, nấu rượu, tung chài, bủa lưới… Nhiều nghề thủ công có tới nghìn năm tuổi là niềm tự hào của Hà Nội ngàn năm.
Hồ Tây lại còn đích thực có một vùng văn hóa riêng biệt, là nguồn cảm hứng, nguồn thi tứ của bao thế hệ người Hà Nội.
Lại còn tiềm năng du lịch nữa. Du lịch quanh Hồ Tây không chỉ để biết không gian văn hóa mà còn được mở rộng cả thời gian văn hóa. Làm một vòng quanh hồ, không chỉ ngắm cảnh hồ đẹp, mây trời đẹp, đình chùa đẹp mà còn là dịp trở về cội nguồn với Lạc Long Quân khi ông diệt hồ tinh, với ông trạng Lê Văn Thịnh và nghi án hóa hổ, với Vũ Như Tô xây Cửu trùng đài, với Nam Đồng thư xã – một nhà sách tiến bộ vào năm 1926 – 1927, với bến đò Phú Xá, dải đất đầu tiên của Hà Nội được đón Bác Hồ...
Tìm hiểu Hồ Tây chính là tìm hiểu một phần rất cơ bản của văn hóa Thăng Long – Hà Nội, mà về lễ hội vùng Hồ Tây là một minh chứng. Lễ hội vùng Hồ Tây không vượt ra ngoài hằng số của lịch sử văn hóa Việt
Hội Hồ Khẩu có trò “bắt chạch trong chum” và hội Phú Xá có tục rước Đức Thánh Tăng là tín ngưỡng phồn thực. Rồi bơi thuyền và rước nước ở Nhật Tân, Yên Phụ có gốc rễ là tục thờ nước của cư dân trồng lúa nước. Hội Linh Lang diễn ra ở các làng Thủ Lệ, Thụy Khuê, Vạn Phúc... là hồi quang của tục lệ liên minh làng xã.
Lễ hội vùng Hồ Tây không chỉ mang sắc thái văn hóa nông nghiệp mà cũng tích hợp nhiều lớp tín ngưỡng, từ những tín ngưỡng nguyên thủy, ẩn tàng sâu xa, đến những tín ngưỡng tôn thờ danh nhân, tín ngưỡng tôn giáo...
Nhưng trong những ngày hội thì các mực thước thường ngày được tạm gác lại, như trai gái tha hồ đùa rỡn trong đám rước Đức Thánh Tăng ở Phú Xá trước mắt mọi người. Và mọi người ai ai cũng có thể bình đẳng trước thần thánh, thoải mái cầu cúng, tự do tranh giành những vật thiêng (nếu có) hay giàu nghèo đều được tham dự với những điều kiện giống nhau vào các trò chơi.
Hội lễ vùng Tây Hồ chủ yếu là hội mùa xuân: Làng Nghè mùng 4 Tết, làng Xuân Biểu 19 tháng Giêng, các làng Xuân Biểu 19 tháng Giêng, các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Yên Phụ, Thụy Khê, Yên Thái, Bái Ân đều mở trong các ngày mùng 10, 11 tháng Giêng, sang 13, 14 tháng Giêng là hộ Hồ Khẩu, An Phú. Các lễ hội đó, đa dạng trong sắc thái biểu hiện, trong đối tượng thờ cúng, trong nghi thức lễ tiết, trong không gian văn hóa, trong diễn xướng... và đều có mẫu số chung là cầu nước, mừng mưa, cầu được mùa, dâng lễ vật tạ ơn trời đất, tổ tiên.
Ngoài ra, hội xuân còn ấp ủ cả triết lý phồn thực, biểu dương sự ghép đôi, giao duyên, giao phối trai gái. Ở dây không có nõ nường, không có múa mo nhưng có bắt chạch trong chum ở hội Hồ Khẩu, có tháng Bà nổi cơn ghen ở hội làng Dàn...
Tuy nhiên, trước sau đây vẫn là vùng cận kinh đô cho nên chưa “nhất thanh” thì cũng “nhị lịch”, có điều kiện để chắt lọc tinh túy của bốn phương mà tạo ra bản sắc riêng của mình: mềm mại, duyên dáng, bay bổng hơn những yếu tố thô phác ở hội làng các vùng quê khác.
Chẳng hạn, mảng hội “bắt chạch trong chum” ở làng Hồ Khẩu giống như nhiều nơi khác, có một dãy chum đặt trước sân đình, trong chum có nước, có thả một con chạch. Người chơi một đôi nam nữ vừa phải bắt chạch, vừa quàng vai nhau và bóp ngực nhau. Song ở Hồ Khẩu có khác: Dự thi vẫn là một đôi nam nữ nhưng chỉ có nam thì phải bắt chạch một tay khoắng trong chum (để bắt chạch), một tay nắm cổ tay của nữ. Bên nữ phải vùng vẫy để tuột khỏi tay mình, tuy nhiên lệ làng lại quy định là cổ tay cô gái lằn đỏ, tức bị nắm chặt quá, thì nam coi như mất điểm, dù bắt được chạch. Như vậy có thể nhận định rằng “bắt chạch” ở các nơi khác, nghi thức của tín ngưỡng phồn thực được diễn ra với những động tác tính giao cụ thể, lộ liễu, trần trụi. Còn ở Hồ Khẩu động tác này được cách điệu hóa, tượng trưng bằng hình thức nam chỉ nắm tay nữ, gượng nhẹ nhưng cũng thật là gắn bó, đồng cảm.
Tuy nhiên hầu hết các lễ hội vùng này gần đây có được tổ chức lại nhưng không mấy được thể hiện đầy đủ. Mà ngay cả các nghi thức tế lễ cũng giản đơn đi, song tiến trình nhanh hơn, động tác gọn hơn, cho phù hợp với thời hiện đại. Dù sao đó cũng là lễ hội của một vùng văn hóa Thăng Long.