Hành trang lữ khách

Lễ hội làng - Nơi hội tụ những giá trị cao đẹp

Cập nhật: 21/02/2011 15:02:05
Số lần đọc: 3217
Không có những lễ hội "hoành tráng", "ấn tượng" kéo dài với quy mô lớn, để người ngoạn du miệt mài trẩy hội, nhưng vẫn có "dòng sông lễ hội" chảy suốt mùa xuân ở các làng quê vùng đất Trung du Bắc Giang và trên cả nước.

Mỗi hội làng mang một ý nghĩa, một sắc thái riêng nhưng nó hòa chung vào "dòng sông lễ hội" của đất nước những đạo lý tốt đẹp mà ngàn đời dân tộc ta đã từng có. Đó là niềm tâm linh, hoài vọng tưởng nhớ người xưa, với đạo lý "uống nước nhớ nguồn".

  

Trong đời sống cộng đồng làng xã Việt Nam, có lẽ không một nơi nào là không có lễ hội (hội làng). Lễ hội là hình ảnh thu nhỏ bộ mặt làng xã người Việt nói chung và từng làng, từng xóm nói riêng.

 

Tuy hội làng có thể chưa phản ánh đầy đủ mọi mặt trong đời sống của một làng, một địa phương, song ở đây có những nét tiêu biểu đáng chú ý: Hội làng là hiện thân của nền văn hóa đương đại (theo nhiều sử sách để lại thì nó được phát triển mạnh nhất vào thời Lý). Hội làng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của dân làng. Từ xa xưa, hội làng đã trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa dân gian, một món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân ở mọi vùng quê!

 

Lễ hội mùa xuân của từng làng quê hiện nay thường được mở trong 3 ngày. Ngày đầu là lễ nhập tịch (mở cửa đình), ngày thứ hai (chính hội) gồm các nghi lễ như: Rước ngai kiệu, tế lễ, dâng hương và các trò vui... Ngày thứ ba: Làm lễ tế dã, hoặc rước lại (kết thúc hội). Trong những ngày "đại sự" của làng, nội dung chủ yếu được chia ra làm hai phần rõ rệt: Phần lễ và phần hội.

 

Trong phần nghi lễ, đoàn rước có tính chất "quy mô và hoành tráng nhất". Tục lệ rước của các làng đều tương tự giống nhau. Đây có thể gọi là "Cuộc biểu dương lực lượng" của làng! Đoàn rước lớn có thể đông tới ba, bốn trăm người, được phân ra làm nhiều tiểu ban, mỗi tiểu ban đảm nhiệm một trọng trách. Tiểu ban phù giá: Khiêng ngai kiệu, chiêng trống, hương án, long đình... Tiểu ban hộ giá: Đi sau hương án, đồ thờ có cờ hàng báo, cờ ngũ hành và các đồ hộ quốc như trùy đồng, hồng trượng, phủ việt, rồi tiếp theo là tàn lọng uy nghi cùng đội nhạc cổ "lưu thủy" hòa tấu rộn rã.

 

Trong tiếng trống hội xuân rộn rã vang thúc giục, khắp xóm ngõ làng quê bừng lên một niềm vui nhộn nhịp. Người người tấp nập đội lễ ra đình, đền, chùa thành tâm cung kính. Với niềm tâm linh, hoài vọng tưởng nhớ người xưa, với đạo lý "uống nước nhớ nguồn", ai đứng trước đình cũng muốn bày tỏ tấm lòng chân thật tôn kính. Mặc dù là đời sống tâm linh tín ngưỡng, song việc "làm lễ" trong ngày hội làng lại có ý nghĩa giáo dục cao! Nó làm cho con người ta gạt bỏ đi hết mọi điều ác mà hướng thiện. Làm tan biến những nỗi ưu tư, phiền muộn, lo lắng, những toan tính trong cuộc sống thường ngày để có được nỗi lòng thanh thản, vô tư, đồng thời cũng nhắc nhở cho bản thân và cũng răn dạy cho con cháu làng mình biết ơn và tôn kính các vị thánh hiền, tiền nhân đã có công với nước, với dân. Đó cũng là niềm tự hào của gia đình, dòng họ và quê hương làng xóm mình. Tất cả mọi nghi lễ, rước, tế, dâng hương tưởng niệm, làm trò nhà phật... đều nói lên tấm lòng thành kính, biết ơn của dân làng đối với người xưa.

 

Phần lễ ở trong đình (đền, chùa) trang trọng và tôn nghiêm là vậy, ngược lại ở bên ngoài thì phần hội thật là vui nhộn, sôi nổi. Hội làng từ xa xưa vốn đã có rất nhiều trò vui như: Đánh đu, đấu vật, cướp cờ, chọi gà, cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, cờ tướng... thu hút nhiều người tham gia, cổ vũ. Ngoài ra còn có các tiết mục như: Hát ả đào, hát trống quân, hát đối quan họ ở các nơi trên đình, đền, chùa và dưới thuyền, tối có "chiếu chèo" hoặc giao lưu văn nghệ, thơ ca... Nói chung có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc dân gian truyền thống. Những chàng trai, cô gái làng quê, thường ngày là những thợ cày, thợ cấy khỏe mạnh, đảm đang, đêm hội làng hóa thân thành những ông hoàng, bà chúa oai phong, lộng lẫy hoặc trở thành những liền anh, liền chị quan họ đã hát hay, múa dẻo, lại rất thạo việc ruộng đồng.

 

Ở tỉnh ta có lẽ hầu hết ở làng nào, xã nào cũng có đền, chùa thờ phụng các vị vua anh minh, anh hùng đánh giặc cứu nước, quan thanh liêm, tổ sư của nghề... Vì thế hằng năm, các làng thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công đức các bậc thánh nhân ấy, đồng thời giáo dục con cháu hướng về cội nguồn: Lễ hội Xương Giang (5,6,7-1 AL), Hội chùa Am Vãi (23-3 AL), Lễ hội chùa La (chùa Vĩnh Nghiêm - 14-2 AL), Hội làng Ảm (5,6,7-2 AL), Hội Bổ Đà (16,17,18-2 AL), Lễ hội Thổ Hà (19, 21-2 AL)…

 

Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhiều di tích lịch sử văn hóa ở các địa phương đã được trùng tu và tôn tạo lại khang trang sạch đẹp, đồng thời việc tổ chức lễ hội mùa xuân cũng rất rầm rộ, phong phú. Song có một số hội làng còn mang tính chất đơn điệu, hình thức. Không có lễ nghi tưởng niệm tôn nghiêm để giáo dục ý thức truyền thống cho mọi người, mà chỉ có một số trò chơi như: Quay số, cua cá, đỏ đen... đều mang tính chất "cờ bạc trá hình" sát phạt lẫn nhau, thậm chí còn có những nơi đánh bạc công khai và đã xảy ra cãi lộn, đánh nhau hỗn loạn trong đám hội dẫn đến những việc đau lòng đáng tiếc!

 

Mùa lễ hội đã diễn ra, nên chăng các địa phương sớm dự kiến, đặt ra một chương trình hội làng thật cụ thể, khoa học, mang nội dung sinh hoạt văn hóa, tư tưởng lành mạnh, vui tươi. Có lẽ ngoài phần hội là tổ chức nhiều trò vui chơi, ca hát, bởi lẽ phần này mang ý nghĩa giáo dục rất cao. Làm sao để dân làng và khách thập phương hiểu rõ ý nghĩa ngày hội làng là ngày kỷ niệm gì, di tích, hoặc đình, đền, chùa địa phương mình thờ phụng những ai, hiểu rõ thân thế và sự nghiệp người đó đã có công thế nào với dân, với nước... Từ đó khơi dậy được niềm tự hào của mọi người đối với quê hương mình, tăng thêm sự uy nghiêm trang trọng của ngày lễ hội, đồng thời cũng ý thức cho lớp con cháu hôm nay phải bảo vệ, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của cha ông ta từ ngàn xưa đã để lại.

Nguồn: Báo Bắc Giang

Cùng chuyên mục