Người Lự với lễ hội Căm Mường độc đáo
Đồng bào Lự chiếm gần 2% dân số, sống chủ yếu ở huyện Sìn Hồ và huyện Tam Đường (Lai Châu). Dân tộc Lự thường cư trú dọc theo các con sông, khe suối. Từ xa xưa, với đời sống ổn canh ổn cư, đồng bào Lự đã biết canh tác lúa nước rất sớm, nên đời sống vật chất của họ tương đối ổn định. Vốn văn hóa tinh thần của dân tộc Lự rất phong phú đa dạng, còn giữ được những nét văn hóa riêng, mang đậm bản sắc dân tộc, đặc sắc và tiêu biểu nhất là Lễ Căm mường (hay còn gọi là Lễ Cấm bản).
Lễ hội Căm Mường chính là dịp để bà con dân bản dâng tế lễ vật cầu khẩn thần sông, thần núi, thần khe, thần suối, thần rồng phù hộ cho bà con dân bản no đủ, điều lành ở lại, điều dữ mang đi. Vì mang ý nghĩa tín ngưỡng, nên dân bản thực hiện rất long trọng và thành kính. Trước khi diễn ra, các gia đình phải làm hết việc đồng áng, nương rẫy. Mấy ngày cấm bản thì mọi người chỉ nghỉ ngơi, đi chơi, không phải lao động. Đồng thời, cấm các gia đình mua các thứ từ ngoài đưa về nhà, nên phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm ăn uống trong những ngày cấm.
Lễ hội được tổ chức từ 30 tháng 12 đến 05 tháng 01 Âm lịch hàng năm gồm hai phần:
Phần lễ: Mở đầu cuộc lễ, thầy cả đọc lời tuyên bố lý
do buổi lễ. Trong lời của thầy cả đề cập tới lịch sử của người Lự, lịch sử bản
mường, cái lý của việc làm lễ và những người sẽ được “thụ lễ” lần này.
Khi bắt đầu lễ các thầy lạy một lạy rồi bắt đầu đọc lời khấn. Trong phần lễ này
không có khèn, sáo, trống hay bất kì một loại nhạc cụ nào để làm âm vang. Bởi
theo quan niệm của người Lự thì như thế sẽ làm ảnh hưởng tới các linh hồn
riêng, mà cái linh hồn ở đây chính là sự thần bí, linh thiêng ẩn hiện trong
những lời khẩn cầu của thầy cúng.
Người Lự ví lễ là dịp để thể hiện lòng thành kính đối với các vị thần được thể hiện bằng các lễ vật dâng tế trong buổi lễ. Những lễ vật này do dân bản tự nguyện đóng góp, và thầy cúng sẽ khẩn cầu lên vị thần thấu hiểu lòng thành kính của dân bản, mong được mùa bội thu, thóc lúa đầy bồ, già trẻ gái trai trong bản được vui vẻ sum vầy hạnh phúc.
Người Lự có truyền thống làm bánh nếp (khẩu nép) để ăn, mời bạn bè, khách đến nhà chơi. Bản không cấm các gia đình mổ gà, mổ ngan, vịt… Nhưng ít ai làm thịt con vật, vì họ cho rằng ngày cúng lễ là cầu cho vật nuôi không bị dịch bệnh, phát triển tốt.
Phần hội: Các chàng trai thổi sáo để các cô gái hát những bài ca của dân tộc mình. Những lời hát nhắn nhủ của thế hệ đi trước dành cho lớp trẻ hôm nay phải biết chung tay xây dựng bản mường ngày càng ấm no hạnh phúc.
Cùng với các bài hát thì các trò chơi như kéo co, đẩy gậy. Nó thể hiện sức mạnh của mỗi người, đồng thời nếu ai thắng sẽ gặp may mắn trong năm tới, còn ai thua sẽ là gặp không may. Kết thúc lễ hội mọi người cùng té nước để cầu may, cũng như gột rửa những điều không may mắn./.