Thúc đẩy phát triển du lịch đường bộ qua biên giới
Với lợi thế về vị trí địa lý, đường biên giới dài, mạng lưới đường bộ đang phát triển, đặc biệt có tuyến đường xuyên Á kết nối với các thị trường có nhu cầu du lịch đường bộ cao, tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn hấp dẫn, Việt Nam đủ điều kiện cơ bản để phát triển du lịch biên giới đường bộ và thu hút du khách quốc tế đến bằng đường bộ qua biên giới. Luật Giao thông đường bộ cho phép xe ô-tô tay lái bên phải lưu thông trên hệ thống giao thông của nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển mạnh loại hình du lịch bằng xe tự lái của khách du lịch. Ðây là nguồn khách du lịch có vị trí quan trọng trong cơ cấu khách quốc tế đến Việt Nam, chiếm khoảng hơn 30% trong tổng lượng khách quốc tế, với thị trường chủ yếu là khách Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Lào, Thái-lan... Trong đó, lượng khách Việt kiều tại vùng đông bắc Thái-lan có nhu cầu về thăm quê rất lớn. Ngoài ra, lượng khách quốc tế đến từ nước thứ ba cũng quan tâm tới du lịch đường bộ qua biên giới tới Việt
Cùng với sự phát triển của du lịch cả nước nói chung, du lịch biên giới thời gian gần đây đã có bước phát triển nhất định. Hoạt động vận chuyển du lịch đường bộ qua biên giới qua các cửa khẩu quốc tế với các nước trong khu vực đang phát triển nhanh, đặc biệt là qua các cửa khẩu quốc tế như Lào Cai, Hữu Nghị, Móng Cái (với Trung Quốc), Tây Trang, Lao Bảo, Cầu Treo, Bờ Y (với Lào), Mộc Bài, Sa Mát và Tịnh Biên (với Cam-pu-chia). Hành lang kinh tế Ðông Tây (EWEC) chính thức thông tuyến năm 2006 cũng đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch đường bộ qua biên giới của nước ta, tạo cơ hội cho các quốc gia đẩy mạnh hợp tác kinh tế và phát triển du lịch đường bộ qua biên giới. Ngành giao thông vận tải của Việt Nam, Lào và Thái-lan cũng đã ký thỏa thuận về vận tải du lịch đường bộ giữa ba nước, tạo nên bước đột phá quan trọng cho sự phát triển của du lịch đường bộ đối với hai thị trường này.
Mặc dù tiềm năng du lịch của các tỉnh biên giới là khá lớn, nhưng lượng du khách đến với các tỉnh này nhiều hạn chế. Ngoài Quảng Ninh và Lào Cai ở phía bắc, Thừa Thiên-Huế - Quảng Nam ở miền trung đã có những bước phát triển nhất định, còn du lịch của các tỉnh biên giới nhìn chung đều chưa thật sự có được những chuyển biến mạnh mẽ. Lượng khách đến còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Kết cấu hạ tầng tại các tỉnh phần lớn không đáp ứng được nhu cầu của du lịch. Trên dọc tuyến quốc lộ hầu như chưa có trạm dừng xe du lịch với đầy đủ các dịch vụ cần thiết khép kín. Cơ sở lưu trú và ăn uống ở nhiều tỉnh biên giới như Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu, Ðiện Biên, Thanh Hóa, Kiên Giang, An Giang, Bình Phước... chưa đạt chuẩn phục vụ du khách, nhất là khách du lịch ca-ra-van là những người có thu nhập khá cao và hướng tới những sản phẩm, dịch vụ cao cấp, dẫn đến việc khai thác loại hình du lịch này còn hạn chế. Việc quy hoạch và quản lý tài nguyên du lịch ở nhiều tỉnh biên giới còn hạn chế, dẫn đến việc đầu tư nhiều công trình làm phá hủy tài nguyên du lịch, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, cảnh quan tuyệt đẹp ở nhiều điểm đến. Công tác tiếp thị, quảng bá du lịch của nhiều địa phương chưa được đẩy mạnh. Nhiều điểm du lịch, bản làng của đồng bào dân tộc ở một số tỉnh biên giới chưa xây dựng được hệ thống dịch vụ làm khách phiền lòng và tạo ấn tượng không tốt.
Ðể thúc đẩy phát triển du lịch biên giới, tăng nhanh lượng khách du lịch quốc tế đến các tỉnh biên giới, trong thời gian tới ngành du lịch nước ta cần phối hợp các ngành liên quan và các tỉnh biên giới tập trung thực hiện hoàn thiện cơ chế chính sách và hành lang pháp lý cho phát triển du lịch đường bộ qua biên giới; đẩy mạnh công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch tài nguyên du lịch nhằm bảo vệ tối ưu tiềm năng, thế mạnh du lịch của các địa phương. Thẩm định, xem xét kỹ tất cả các dự án đặt tại các khu vực có tài nguyên du lịch hoặc sử dụng tài nguyên du lịch. Một mặt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên phối hợp Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan sớm trình Chính phủ dự thảo Nghị định về tổ chức và quản lý phương tiện cơ giới đường bộ của người nước ngoài mang vào Việt Nam du lịch. Nghị định này sau khi ban hành sẽ tạo bước đột phá trong việc phát triển loại hình du lịch xe tự lái qua các cửa khẩu quốc tế đường bộ vào nước ta. Ðồng thời nên sớm hoàn thiện và ban hành Thông tư liên tịch để triển khai việc cấp biển hiệu cho phương tiện vận chuyển khách du lịch và tổ chức đào tạo đội ngũ lái phương tiện vận chuyển khách. Các tỉnh biên giới có cửa khẩu quốc tế đường bộ cũng cần nhanh chóng chỉ đạo thống nhất các khoản phí, mức phí tại cửa khẩu quốc tế.
Một yếu tố quan trọng thúc đẩy du lịch biên giới phát triển là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Việc chủ động phối hợp các bộ ngành chức năng tập trung đầu tư, nâng cấp các tuyến quốc lộ, mở rộng các tuyến đường từ trung tâm tỉnh lỵ hoặc từ quốc lộ chính tới các cửa khẩu quốc tế đường bộ, xây dựng các đoạn đường nối từ quốc lộ đến các khu, điểm du lịch của địa phương theo quy hoạch đã được phê duyệt và với các tỉnh bên kia biên giới của nước láng giềng để từ đó hình thành sự liên kết du lịch đa dạng, góp phần thu hút các hãng lữ hành đưa khách đến. Cụ thể, thời gian tới, nên tập trung nâng cấp quốc lộ 9, xây dựng đường cao tốc nối từ Cam Lộ (Quảng Trị) đến Túy Loan (Ðà Nẵng) để rút ngắn khoảng cách, tạo thuận lợi cho du lịch của các tỉnh miền trung. Nâng cấp quốc lộ 8 để hút khách từ cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng), Luông Pha-băng sang Nghệ An, Thanh Hóa. Hoàn thành đường nối quốc lộ 6 với cửa khẩu Huổi Phuốc (Ðiện Biên) để thu hút khách quốc tế đã đến Luông Pha-băng đến Ðiện Biên và các tỉnh Tây Bắc nước ta. Bên cạnh đó, hệ thống các biển báo, hướng dẫn theo tiêu chuẩn quốc tế bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh cần được nhanh chóng bố trí dọc các tuyến đường nối tới các khu, điểm du lịch của địa phương. Ngoài ra, những chính sách và cơ chế thông thoáng hơn, sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, kinh doanh trạm dừng chân trên một số tuyến quốc lộ chính. Bên cạnh việc quy hoạch các cửa khẩu quốc tế đường bộ, dành quỹ đất xây dựng công trình khu cửa khẩu, cần đầu tư trang thiết bị hiện đại và mở rộng hơn các quầy đón khách du lịch ở đây; cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh, hải quan tại cửa khẩu quốc tế đường bộ. Bố trí quy trình kiểm tra, kiểm soát một cách khoa học, rút ngắn thời gian làm thủ tục và nên có luồng ưu tiên cho du khách du lịch, đồng thời bố trí lực lượng làm việc ngoài giờ, thứ bảy và chủ nhật để tạo điều kiện thuận lợi cho khách quốc tế vào Việt Nam qua các cửa khẩu đường bộ.
Thời gian qua, Tổng cục Du lịch đã xúc tiến nhiều phương án hỗ trợ các tỉnh biên giới đẩy mạnh hoạt động du lịch, thực hiện các chiến dịch quảng bá thông qua những liên hoan, hội chợ, triển lãm du lịch và các lễ hội văn hóa, tổ chức các đoàn khảo sát, nhằm khai thác đối tượng khách gần từ các tỉnh cận kề biên giới của nước bạn. Nghiên cứu thực hiện các ấn phẩm quảng bá bằng ngôn ngữ của địa phương nước bạn tiếp giáp để cung cấp thông tin trực tiếp đến du khách tiềm năng, đẩy mạnh ứng dụng in-tơ-nét giới thiệu du lịch qua biên giới. Các tỉnh biên giới cũng đang từng bước chủ động liên kết, tăng cường giới thiệu, quảng bá du lịch của địa phương thông qua hình ảnh chung là du lịch vùng. Khắc phục hạn chế về sản phẩm và dịch vụ, du lịch các tỉnh biên giới phải khẩn trương tập trung đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và chất lượng dịch vụ vận chuyển du lịch, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm quyết định việc thu hút khách. Những sản phẩm du lịch này không những phù hợp với thị trường khách mà còn phù hợp phương thức vận chuyển khách (đường bộ, ca-ra-van, đường hàng không, liên hợp đường bộ - đường sắt...), hợp với các điều kiện hiện có và đặc trưng cho văn hóa địa phương. Theo đó, các tỉnh có thể nghiên cứu xây dựng các tua du lịch mạo hiểm: leo núi, đi xe đạp, mô-tô, ô-tô, dù lượn, khinh khí cầu, đi bộ trekking, v.v. bởi đây là các loại hình du lịch rất thích hợp địa hình miền núi. Việc tạo dựng sản phẩm du lịch còn thể hiện ở công tác tổ chức sản xuất những mặt hàng lâm thổ sản và các sản phẩm đặc sắc, khôi phục làng nghề, lễ hội tại các bản dân tộc; xây dựng chương trình du lịch kết hợp các hoạt động văn hóa truyền thống.
Mặt khác, các tỉnh nên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực vận chuyển khách du lịch, đầu tư các phương tiện vận chuyển hiện đại, tiện nghi, nâng cao dịch vụ vận chuyển khách du lịch theo hướng văn minh, lịch sự. Ngành du lịch các tỉnh biên giới cần phối hợp với các Trường đào tạo du lịch tổ chức những lớp đào tạo thực hành ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên phục vụ du lịch ở địa phương, trước hết là nhân viên phục vụ tại các cơ sở lưu trú, nhà hàng và thuyết minh viên tại các điểm du lịch của địa phương. Tập trung đào tạo ngay một đội ngũ thuyết minh viên giỏi về chuyên môn tại các điểm du lịch, các bảo tàng, các bản dân tộc đón khách du lịch. Ðẩy mạnh giáo dục cộng đồng cho người dân tại các điểm du lịch, tăng cường nhận thức của người dân đối với lợi ích của phát triển du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch của địa phương. Một trong các giải pháp phát triển du lịch mà các tỉnh biên giới nước ta cần chú trọng là tăng cường liên kết với ba nước bạn: Lào, Thái-lan, Cam-pu-chia để xây dựng chương trình du lịch liên quốc gia bốn nước một điểm đến cho du lịch ca-ra-van, từ đó mở rộng liên kết du lịch đường bộ sang Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, My-an-ma và có kế hoạch thu hút khách Trung Quốc đường bộ và khách Trung Quốc sử dụng xe tự lái sang Việt Nam du lịch. Cùng các tỉnh biên giới các nước láng giềng xây dựng kế hoạch hợp tác song phương để phát triển du lịch đường bộ.
Trước mắt, để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng lữ hành tổ chức đón khách, Chính phủ nên sớm có các chính sách ưu tiên, khuyến khích loại hình du lịch ca-ra-van, ban hành các văn bản pháp quy về tổ chức và quản lý phương tiện cơ giới đường bộ của khách quốc tế đưa vào Việt Nam du lịch. Bên cạnh đó, nếu các cửa khẩu chính đủ điều kiện và có khả năng đón khách nên chuyển thành cửa khẩu quốc tế, qua đó nối thêm lộ trình và tạo nên các sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khách vào.