Độc đáo Lễ cúng giọt nước của dân tộc Ba Na tỉnh Gia Lai
Trên dải đất Trường Sơn - Tây Nguyên mà nhiều dân tộc khác cùng sinh sống trên vùng đất này đều coi nước là người mẹ thiên nhiên, vị thần được tôn sùng bậc nhất ở đây. Họ quan niệm không ăn cơm còn sống được cả tháng trời, không có áo mặc thì chỉ bị lạnh thôi, còn không có nước thì không thể sống được. Do đó, Thần nước được người Tây Nguyên thờ cúng long trọng và vô cùng linh thiêng. Giọt nước đối với đồng bào dân tộc Ba Na, Jrai ở Tây Nguyên là một biểu tượng văn hóa hết sức độc đáo, nó gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần, tâm linh của bà con trong từng buôn làng.

Đồng bào Ba Na chuẩn bị Lễ cúng nước
Dân tộc Ba Na thuộc ngữ hệ Môn-Khơme, với dân số khoảng hơn 100.000 người tại tỉnh Gia Lai (tập trung ở Đắk Đoa, Kon Chro, Kbang, Chư Păh), đồng bào coi nguồn nước (giọt nước hoặc bến nước) là nơi thiêng liêng, nơi thần nước (Yang Đak hoặc Yang Ia) ngự trị.
Đồng bào Ba Na tin con người có ba hồn (một hồn chính ở đỉnh đầu, hai hồn phụ), và lễ giúp cân bằng linh hồn với tự nhiên, trong hệ thống lễ hội nông nghiệp, lễ cúng thần nước được coi là cầu nối giữa thần Lúa (yang Pơ Tao) và thần Sấm Sét, phản ánh quan niệm về chu kỳ mưa nắng ở Tây Nguyên - vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nơi hạn hán thường xuyên đe dọa canh tác nương rẫy.
Lễ cúng giọt nước thường tổ chức vào tháng 3-4 (cuối mùa khô, chuẩn bị vụ trồng mới) hoặc tháng 10-11 cuối năm nhằm tạ ơn thần linh vì nguồn nước sạch, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, sức khỏe cộng đồng và tránh dịch bệnh, tai nạn sông nước, vạn vật buôn làng đều tươi tốt.
Lễ vật để dâng cúng thần linh gồm có: cây nêu, cây tre dài 2m, bình nước, vỏ quả bầu khô, ghè rượu, gà, heo, cơm nếp, lá chuối….
Trước khi tổ chức lễ cúng Giọt nước, già làng tổ chức họp dân tại nhà rộng thông báo cho bà con biết ngày tổ chức lễ cúng huy động đóng góp, giao nhiệm vụ cho từng gia đình để chuẩn bị cho buổi lễ. Phụ nữ đảm nhận việc làm sạch sẽ đường làng, ngõ xóm, dọn dẹp khu vực đường xuống Giọt nước. Thanh niên vào rừng đi chặt tre nứa đan thành các vòm hoa văn dựng một cây nêu tại khu làm lễ cúng. Người già chuẩn bị trang phục truyền thống, các bài văn tế trong lễ tế thần nước. Ngoài ra, các đội cồng chiêng, múa xoang của làng cũng tranh thủ tập luyện để biểu diễn trong ngày cúng giọt nước.

Già làng thực hiện nghi lễ
Thời điểm làm lễ cúng giọt nước thường vào buổi sáng sớm. Cây nêu được thanh niên trong làng mang đến chỗ làm lễ để cắm sắn. Lễ vật gồm một con gà nướng, ghè rượu lá chuối, nồi to đựng nước, các món ăn được chế biến sẵn, ống tre múc nước….
Lễ cúng giọt nước bắt đầu, các thanh niên trải lá chuối, đặt ghè rượu ngay trung tâm cây nêu, xung quanh để đồ ăn, con gà. Già làng bắt đầu cúng gọi Yang xuống phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Lời khấn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và những ước nguyện chân thành của cả buôn làng: Cầu phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật trong làng đều tươi tốt, không có bệnh dịch xảy ra. Cầu xin Yang phù hộ cho nước luôn dồi dào, không khô hạn. Cầu mong sự bình an, tránh tai nạn sông nước, đi đường không bị tai nạn, và cầu mong khách thượng lộ bình an.

Thông qua lễ hội, nhắc nhở con người về sự phụ thuộc vào thiên nhiên, về lòng biết ơn đối với nguồn sống và sự đoàn kết.
Lời khấn cũng là lời mời "Mời ông bà trên cao chung vui với dân làng" và cầu xin "có lúa ăn, có nước uống, có lúa để dành".
Kết thúc lời khấn, lần lượt từ già làng, tất cả người dân đều xuống giọt nước hứng vào các bầu, các chai. Sau đó bà con lấy nước rửa mặt, rửa tay chân, tạt vào người nhau để hứng lấy may mắn Yang ban cho.
Sau khi cúng xong, già làng tiến lên phía đặt trống, cầm dùi và đánh một hồi sau đó hô to, tiếng cồng chiêng nổi lên, dân làng trai gái nắm tay nhau đoàn kết nhảy điệu xoang vòng tròn xung quanh cây nêu, uống rượu ghè, chúc nhau những điều may mắn.
Lễ cúng Giọt nước của người Ba Na không chỉ là một nghi lễ nông nghiệp đơn thuần, mà còn là một bảo tàng sống về triết lý nhân sinh, tâm linh và văn hóa cộng đồng. Thông qua lễ hội, nhắc nhở con người về sự phụ thuộc vào thiên nhiên, về lòng biết ơn đối với nguồn sống và sự đoàn kết. Việc gìn giữ nghi lễ này không chỉ là bảo tồn di sản của dân tộc Ba Na mà còn là bài học quý giá về sự hài hòa giữa con người và môi trường, một nét đẹp văn hóa cần được trân trọng và phát huy trong dòng chảy hiện đại../.
Trang Anh










