Lễ hội Bà Thu Bồn được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
Khai mạc buổi lễ, Chủ tịch UBND huyện – Nguyễn Văn Hòa nhấn mạnh Lễ hội Bà Thu Bồn có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân thôn Trung An nói riêng, huyện Nông Sơn nói chung. Đây là lễ hội lớn, mang màu sắc tín ngưỡng dân gian có từ bao đời, thể hiện tinh thần đoàn kết của các dân tộc Chăm, Cơ Tu, Kinh sinh sống vùng thượng lưu sông Thu Bồn. Việc đón Bằng công nhận di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia Lễ hội Bà Thu Bồn là sự kiện văn hóa quan trọng, là niềm vinh dự của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Quế Trung nói riêng, huyện Nông Sơn nói chung; thể hiện lòng thành kính, tri ân tưởng nhớ công đức của Bà Thu Bồn đối với nhân dân huyện nhà.
Tương truyền, Bà là một nữ tướng người Chăm, tài sắc vẹn toàn, được vua Nguyễn sắc phong là Mỹ đức thục hạnh Bô Bô phu nhân Thượng đẳng thần. Trong một trận thất thủ, Bà men theo hướng tây đến Phường Rạnh (xã Quế Trung, huyện Nông Sơn), thấy nơi đây địa hình hiểm trở, đảm bảo điều kiện cho việc ổn định quân tình, Bà đã chọn nơi đây làm nơi sinh sống và là căn cứ đóng quân. Tại đây, bên cạnh việc chiêu quân và tổ chức luyện binh, Bà còn cho quân lính đào giếng, đào ao, trồng lúa, chăn nuôi; dạy cho dân làng trồng dâu nuôi tằm, quây tơ, dệt vải, cách dùng thảo mộc trong rừng để chữa bệnh cho người và con vật nuôi. Trong một lần giao tranh bị thất bại, trong lúc thế cùng, lực kiệt, Bà đã gieo mình xuống dòng sông Thu Bồn tự vẫn. Xác Bà trôi về dưới miền xuôi, được nhân dân làng Thu Bồn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên an táng, thờ phụng và xây dựng Lăng Bà ngày nay…
Tưởng nhớ công ơn của Bà, từ ngày 10 đến 12.2 âm lịch hằng năm, người dân thôn Trung An (xã Quế Trung, huyện Nông Sơn) lại thành kính tổ chức Lễ hội Bà Thu Bồn.
Phát biểu tại buổi lễ, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ông Trần Văn Tân - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam đánh giá, Lễ hội Bà Thu Bồn là một hình thái lễ hội dân gian được hình thành từ khi người Việt ở phía Bắc di cư đến khai phá vùng đất mới, lập làng xã vào thế kỷ XV, sau đó giao thoa tiếp biến với văn hóa Chămpa, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Tây Quảng Nam để tạo nên tín ngưỡng thờ mẫu Bà Thu Bồn với những giá trị văn hóa đặc sắc và được bảo tồn, phát huy cho đến ngày nay.
Sức lan tỏa, bám rễ sâu bền trong đời sống xã hội của tín ngưỡng thờ Bà Thu Bồn xuất phát từ chính khát vọng mà người dân luôn hướng đến, luôn cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, quốc thái dân an, làng xã được ấm no, hạnh phúc; góp phần thắt chặt nghĩa đồng bào, khơi dậy hồn thiêng sông núi; tạo nên sắc thái văn hóa, tín ngưỡng phong phú, đa dạng, tiêu biểu cho đời sống tín ngưỡng dân gian của cư dân vùng duyên hải miền Trung. Do vậy, đây không chỉ là lễ hội tín ngưỡng có quy mô lớn nhất của tỉnh Quảng Nam mà còn có sức hấp dẫn, lan tỏa đến các lễ hội khác của các tỉnh, thành trong khu vực miền Trung như Lễ hội Điện Hòn Chén tại TP Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) và Lễ hội Bà Ponaga ở TP Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa). Lễ hội Bà Thu Bồn còn là minh chứng tuyệt vời cho sợi dây cố kết cộng đồng, tinh thần quê hương đất nước mà trong đó Nông Sơn là nơi hội tụ, giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa miền núi với miền xuôi trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển Quảng Nam. Chính vì lẽ đó, Lễ hội Bà Thu Bồn là một sự kiện rất quan trọng trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm 550 năm Danh xưng Quảng Nam (1471-2021).
“Trong thời gian đến, UBND huyện Nông Sơn và các ban ngành liên quan cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy thật tốt giá trị truyền thống văn hóa của di sản văn hóa Lễ hội Bà Thu Bồn; tăng cường tuyên truyền, quảng bá về mục đích, ý nghĩa, giá trị của di tích Dinh Bà gắn với lễ hội truyền thống Bà Thu Bồn. Đồng thời, phối hợp với huyện Duy Xuyên định kỳ tổ chức lễ hội truyền thống hướng đến sản phẩm văn hóa, du lịch đặc sắc miền sông nước để nâng tầm và xứng đáng hơn nữa, thu hút du khách nhiều hơn nữa. Huyện cũng cần phối hợp với Sở VHTT&DL tham mưu UBND tỉnh để có cơ chế phát huy giá trị di tích, chế độ chính sách, đãi ngộ đối với các nghệ nhân đã công lưu truyền thực hành di sản và truyền dạy lại cho con cháu mai sau...” - ông Trần Văn Tân nói.