TIN NÓNG: Chỉ số năng lực phát triển của Du lịch Việt Nam tăng 8 bậc, nằm trong 3 nước tăng cao nhất thế giới
Từ chỉ số năng lực cạnh tranh cho đến chỉ số năng lực phát triển
Từ năm 2007, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã xây dựng báo cáo đầu tiên về Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu. Trong 15 năm qua, báo cáo này thực sự trở thành một “thước đo” uy tín hàng đầu trong ngành du lịch thế giới.
Tuy nhiên, trong 2 năm qua, những thiệt hại nặng nề của ngành du lịch do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận vấn đề của Diễn đàn Kinh tế thế giới. Tổ chức này từ chỗ đánh giá xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh, giờ đây chuyển sang Chỉ số năng lực phát triển. Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong chủ đề của báo cáo năm 2021: “Tái thiết vì một tương lai bền vững và kiên cường hơn”.
Bộ chỉ số năng lực phát triển du lịch gồm 5 nhóm với 17 chỉ số trụ cột và 112 chỉ số thành phần, được thiết kế tập trung nhiều hơn vào đánh giá vai trò của ngành du lịch trong một môi trường kinh tế - xã hội rộng mở hơn. Một số nhóm chỉ số mới so với trước đây đã được bổ sung như Tài nguyên phi giải trí; Sự bền vững về kinh tế-xã hội; Sức ép và tác động của nhu cầu du lịch…
Việt Nam nằm trong số 3 quốc gia có mức độ cải thiện tốt nhất thế giới
Báo cáo của WEF nêu rõ Việt Nam là quốc gia có mức tăng điểm số cao nhất thế giới (+4,7%), về xếp hạng tăng 8 bậc so với năm 2019 (kết quả xếp hạng năm 2019 cũng đã được tính toán, điều chỉnh lại theo Chỉ số năng lực phát triển). Cùng với Việt Nam, Indonesia (tăng 12 bậc) và Ả rập Xê út (tăng 10 bậc) là 3 quốc gia có chỉ số năng lực phát triển du lịch tăng hạng cao nhất.
Một số điểm đến nổi tiếng ở Đông Nam Á không có kết quả tốt: Thái Lan giảm 1 bậc, xếp thứ 36, Malaysia giảm 9 bậc, xếp thứ 38, Philippines giảm 2 bậc, xếp thứ 75.
Báo cáo cũng nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của công nghệ số trong tái thiết và phục hồi du lịch bền vững. Ngày càng nhiều các dịch vụ du lịch được tiếp cận qua nền tảng số như đại lý du lịch trực tuyến (OTA), kinh tế chia sẻ, đặt phòng trực tuyến, thanh toán điện tử, thiết bị di động… mang lại cho du khách nhiều tiện ích hơn, nhiều lựa chọn hơn và giảm bớt tiếp xúc trực tiếp, gia tăng trải nghiệm liền mạch của du khách. Bên cạnh đó, chăm sóc sức khỏe, điều kiện làm việc, điều kiện kinh tế-xã hội, bảo vệ xã hội… cũng là những vấn đề cần quan tâm.
Có thể nói, kết quả xếp hạng của ngành Du lịch Việt Nam theo hướng tiếp cận mới của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã phản ánh những thành tựu trong công cuộc phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam, sự thích ứng linh hoạt, an toàn, những nỗ lực không ngừng nghỉ vươn lên triển khai hoạt động du lịch an toàn, những quyết sách nhằm phục hồi du lịch, mở cửa trở lại toàn bộ du lịch nội địa và quốc tế sau khi dịch bệnh được kiểm soát tốt, cũng như những yếu tố bền vững làm điểm tựa cho ngành Du lịch Việt Nam phục hồi và phát triển.
-------------------------
Chỉ số năng lực phát triển du lịch là gì?
Chỉ số năng lực phát triển du lịch (Travel & Tourism Development Index - TTDI) là bản nâng cấp của Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch (Travel & Tourism Competitiveness Index - TTCI).
Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch đã được sử dụng trong 15 năm qua. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh mới sau đại dịch COVID-19, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã có cách tiếp cận mới, chuyển đổi sang bộ Chỉ số mới đo lường về năng lực phát triển du lịch.
Chỉ số năng lực phát triển du lịch gồm 5 nhóm với 17 chỉ số trụ cột và chia nhỏ ra 112 chỉ số thành phần. Trong khi đó, chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch trước đây có 4 nhóm với 14 chỉ số trụ cột và chia nhỏ ra 90 chỉ số thành phần. Bộ chỉ số năng lực phát triển du lịch đã được điều chỉnh và bổ sung các chỉ số mới tập trung vào đánh giá mức độ bền vững của du lịch.
Cụ thể như sau:
CHỈ SỐ NĂNG LỰC PHÁT TRIỂN DU LỊCH |
CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH DU LỊCH |
(1) Nhóm Môi trường hoạt động - Môi trường kinh doanh - An ninh, an toàn - Y tế và vệ sinh - Nhân lực và thị trường lao động - Mức độ sẵn sàng về CNTT và truyền thông |
(1) Nhóm Môi trường hoạt động - Môi trường kinh doanh - An ninh, an toàn - Y tế và vệ sinh - Nhân lực và thị trường lao động - Mức độ sẵn sàng về CNTT và truyền thông |
(2) Nhóm Chính sách và điều kiện hỗ trợ - Mức độ ưu tiên cho ngành du lịch - Mức độ mở cửa quốc tế - Sức cạnh tranh về giá |
(2) Nhóm Chính sách và điều kiện hỗ trợ - Mức độ ưu tiên cho ngành du lịch - Mức độ mở cửa quốc tế - Sức cạnh tranh về giá - Sự bền vững về môi trường |
(3) Nhóm Cơ sở hạ tầng - Hạ tầng hàng không - Hạ tầng mặt đất và cảng - Hạ tầng dịch vụ du lịch |
(3) Nhóm Cơ sở hạ tầng - Hạ tầng hàng không - Hạ tầng mặt đất và cảng - Hạ tầng dịch vụ du lịch |
(4) Nhóm Động lực thúc đẩy nhu cầu du lịch - Tài nguyên tự nhiên - Tài nguyên văn hóa - Tài nguyên phi giải trí |
(4) Tài nguyên du lịch - Tài nguyên tự nhiên - Tài nguyên văn hóa
|
(5) Nhóm Sự bền vững của du lịch - Sự bền vững về môi trường - Sự bền vững về kinh tế-xã hội - Sức ép và tác động của nhu cầu du lịch |
|
Tổng cộng: 5 nhóm và 17 chỉ số trụ cột |
Tổng cộng: 4 nhóm và 14 chỉ số trụ cột |
Trung tâm Thông tin du lịch