Hội, Lễ ở Mường Bi (Hòa Bình)
PhầnI: Hội, lễ nông nghiệp
1. Hội xuống đồng (Khuống mùa):
Là một hội được tổ chức lớn ở nhiều nơi. Ở xã Phong Phú, Hội xuống đồng tổ chức ở xóm Lý. Nơi đó dựng một miếu lớn bằng gỗ thờ đức thánh Tản, trong hậu cung miếu có tượng người bằng đá. Hội diễn ra từ ngày khai hạ (ngày 7 tháng giêng) chậm nhất đến ngày mồng mười tháng giêng, tức ngày 10 tháng bốn mường Bi phải tổ chức xong. Ngày mở hội dân chúng toàn mường đến dự. Ông mo thay mặt dân xã, mặc áo thụng. đội mũ tai én làm lễ khấn thánh Tản phù trợ mùa màng tươi tốt. Dân xã mổ một con hoãng đi săn được trừ khi không có mới mổ bò cúng thay, kiêng không mổ trâu, sau đó để ăn chung. Người đến hội tự mang theo cơm nắm.
Cộng đồng dân xã tổ chức rước kiệu đưa thánh Tản từ ngoài bãi vào miếu, có nhạc lưu thuỷ đi kèm. Ở bãi rộng cạnh miếu, trai gái đưa nhau ném còn. Các đội pùa (cồng) của các xóm và mường bạn đến để đua tiếng chiêng của nhau. Đội Pùa của xã Phong Phú xếp theo trật tự 6 chiếc: 3 chiêng bé, 3 chiêng to: đánh theo lối 3 tiếng dập 1.
Giữa bãi cỏ có treo một lá cờ thần khá lớn.
Buổi trưa, ai đói tự giác vào các lán cạnh miếu ăn cơm. Trong ấy, dân xã đã chuẩn bị nhiều cảnh rượu cần. Uống rượu cần là một thú vui lành mạnh, lôi cuốn nhiều lứa tuổi tham gia. Tại đó, chú chám có toàn quyền xử phạt những ai không thực hiện đúng luật uống rượu cần bất kể họ là dân đinh hay quan cun lang đạo.
Hội xuống đồng tổ chức ở xã Địch Giáo vào tháng tư lịch mường Bi. Xã thịt một con trâu làm lễ tế thần, vừa để đón dân chúng toàn mường Bi (xưa gồm 7 xã: Do Nhân, Quy Mỹ, Phong Phú, Địch Giáo, Tuân Lộ, Mỹ Hoà, PHú Vinh) tới tu sửa lại con mương Lò, bắt nguồn từ suối Kem, chảy qua các sườn đồi xóm Kem về sườn đồi xóm Lầm. Mỗi người đến làm mang theo một gói cơm. Trâu đã tế thần xong sẽ xả thịt chia cho các đầu giáp. Các dầu giáp lại chia về đầu đinh. Dân chúng các xã ăn uống xong lại làm tiếp tới chiều tối mới nghỉ. Mỗi giáp mang theo một chiêng tođánh cổ động. Hộ nào trong 7 xã mường Bi không có người đi sẽ bị cun mường bắt phạt rất nặng.
Lễ xuống đồng ở Địch Giáo là một hội lớn mang tính chất toàn mường. Mo mường làm lễ cúng tưởng nhớ người đầu tiên làm ra con mương. Theo lời mo, người mở mương đó không phải là người Mường ở mường Bi. Người giúp mường thiết kế mở mương có tên là Ải Lý, Ải Lo. Ải Lý, Ải Lo phải chăng là một người Thái. Bởi lẽ, người Thái ở trên mường Bi có kinh nghiệm làm mương, đắp phai. Ải tiếng Thái có nghĩa là bố. Ải Lý, Ải Lo nghĩa là bố Lý, bố Lo. Các bố đã giúp mường làm một con mương lấy nước từ suối Kem tưới cho cả cánh đồng Nóng do cun Khang tạo Khạng mở. Sau này, con mương ấy còn có tên là mường Lò. Khi làm lễ dân mường dâng hương hồn ông Ải Lý, Ải Lo một mâm cỗ có một con vịt luộc với hàm ý tưởng nhớ con người thích sống gần môi trường nước.
2. Hội cầu mưa:
Tháng 4, mùa sấm mọc, dân làng đợi nước làm ruộng nhưng trời vẫn không cho mưa, các già làng giục con cháu làm lễ cầu mưa. Ở xã Mỹ Hoà, dân Đống Chuông cử lễ ở bãi Tếnh lìm do xóm Đon làm chủ lễ, mâm lễ phải thịt con gà trắng. Nơi đó có mó nước chảy từ núi đã ra, từ xã xưa dân đã thờ ma nước. Họ cho rằng ma khú ngủ quên nên không nghe thấy sấm gọi nên không dậy lấy nước cho dân chúng làm mùa. Cỗ cúng có trứng và gạo vì họ nghĩ ma khú ăn các thứ đó. Sau tế lễ, dân chúng kéo nhau tới mó lấy đã ném vào vũng nước cạn có ý đánh thức ma nước dậy. Mọi người người hò reo vang dội. Nhiều người mang theo súng bắn lên trời. Hai xóm Đon và Chuông còn bày binh diễn trận, xóm Chuông là giặc. Hai xóm giả đánh nhau. Chủ tế xóm Đon cầu vua nước gây mưa để dẹp giặc.
3. Lễ rửa lá lúa:
lễ này tổ chức vào kỳ lúa đang đứng cái, khoảng tháng 7 tháng 8 âm. Các gia đình đan các sọt tre có cắm 6 lông gà vòng quanh ra đặt ở đầu ruộng, lại làm nhiều chiếc que cao trên 1m, ngọn có cắm chéo lông gà giả làm cánh cắm ở trong ruộng. Nhiều gia đình còn cho trẻ em lấy lông gà cắm ở quanh bờ ruộng. Mâm cúng bày nhiều bát cháo thịt gà đem đặt ở đầu ruộng để ông mo đọc lời khấn cầu mong mùa màng ít sâu bệnh. Lời mo kể về thời tiền sử, ngày đất đai chưa có hạt lúa để người ăn. Vua Dịt Dàng sai các con vật đi tìm. Mãi rồi con chuột lên gặp bà
4. Lễ cơm mới:
Sau một mùa thu hoạch, trước khi ăn cơm gạo mới người mường Bi có tục làm tết ăn cơm mới cúng tổ tiên. Người Mường không cúng giỗ cha mẹ, việc tưởng nhớ công sinh thành của cha mẹ đều làm kết hợp vào các ngày làm vía, làm lễ, ngày tết. Lễ cơm mới do riêng từng gia đình tổ chức, ngoài việc mời mo đến cúng gia đình không muốn mời ai khác. Xưa kia bà con ít làm vụ chiêm phần đa các giống lúa cấy trồng vào vụ mùa. Lễ cơm mới tổ chức vào tháng 10. Trước lúc dọn cỗ ăn mừng sản phẩm nong nghiệp do mình làm ra, họ mang ít thức ăn cho con chó, con trâu, ngầm ý: Các vật nuôi trong nhà cùng chia vui với người. Ở xã Phong Phú, khu vực chợ Lồ, vào dịp làm tết cơm mới, nhà lang tổ chức khá to, có làm bánh chưng con và bắt cá ở Pai Ải về cúng vía lúa.
Một số nhà trong vùng có tục chọn vài ba cây lúa nương dài cả rễ lẫn bông treo cạnh bếp để giữ vía lúa.
Phần II: Hội lễ có tính tín ngưỡng dân gian
1/ Lễ nạ mụ:
Có dịp chúng ta vào bất kỳ một ngôi nhà sàn của người mường Bi nào hễ ngước nhìn lên mái gianh gian trong sẽ thấy những giỏ đan mắt cáo, nguyên liệu bằng tre nứa cắm ở phía trên đoàn tay, người mường gọi cái đó là nạ mụ ( giả làm mặt người giữ vía). Bao nhiêu nạ mụ là bấy nhiêu người con.
Lễ nạ mụ tổ chức sau 1 tuần sau khi đứa trẻ ra đời. Gia chủ mổ gà cúng vía đứa trẻ, đồng thời làm một nạ mụ trong đựng một đầu ngọn mía, một đôi đũa bông, người mường Bi quan niệm vía của đứa trẻ do một bà mụ trên trời cai quả. Làm nạ mụ là làm nhà để bà ta biết chỗ ở của vía, thỉnh thoảng bà về săn sóc cho chủ vía ít ốm đau, mau ăn chóng khoẻ.
Nạ mụ của mỗi người để trong nhà cho tới lúc về già. Khi ốm đau bệnh tật người già làm lễ giữ vía (gọi là làm mụ thố). Nạ mụ người già con cháu đưa thêm vào một mảnh vải gọi là thêm số, thêm phận xiên qua một quả trứng. Ngoài ra có bỏ thêm vài cành lá cây si và cuộn chỉ tơ vào nạ mụ. Dân gian truyền rằng: nhà mụ trú ở gốc cây si chỉ vì cây si đổ nên vía mới xấu, phải làm lễ kéo cây si dậy sức khoẻ của chủ vía mới trở lại bình thường. Nạ mụ có cuộn dây là vì thế.
Việc làm nạ mụ truyền thuyết lý giải như sau: bà mụ ở trên trời cao, khi xuống trần gian phải qua một con suối, bà ấy lấy mía làm cầu, lấy lau làm gậy đỡ và dựng nhà phên nứa để ở do vậy làm nạ mụ có ý tượng trưng cho những thứ đã kể trên.
Người đến mo gọi mụ ở trên cung trăng xuống. Hôm mo có một cối giã vừng để bên khi cần mo giã cối xua đuổi ma xấu đi.
2. Lễ cầu mát:
Một khi làng xóm nào đó của người Mường Bi bị hoả hoạn, dân làng cho rằng: do đất ở nóng quá phát hoả nên phải làm lễ cầu mát. Mọi thủ tục cúng, cầu xong dân mường sẽ chọn một lão nông mang con trâu ra cày một lối xung quanh xóm và mọi người lấy nước đổ vào luống cày ấy. Lời mo trong hành lễ cầu cả bốn thần: trời- đất- nước- lửa phù trợ cho làng yên vui, mát mẻ.
3. Lễ nhóm lửa:
Gia chủ làm nhà mới khi dựng các cột bếp bao giờ cũng có lễ lấy một bẹ chuối cắt hình ba con cá kẹp vào một cái cắp nứa buộc lên cột bếp. Già làng bảo làm thể để người nhà đỡ bị hoả hoạn. Ba con cá là để dành cho ba ông bà đầu rau ăn. Còn ở cột cái của bếp họ đặt một quả bí xanh phớt trắng. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm một lễ nhóm lửa, cầu thần bếp cho đặt ba hòn đầu rau và một hòn đá cái giữ vía chủ nhà. Ngoài ra, còn lấy vỏ cây núc nắc bỏ bốn góc bếp và giữ bếp. Lửa cháy ngay là may. Chẳng may tắt phải mo thần bếp một chặng dài nữa. Lửa nhóm bếp đã cháy sáng ngôi nhà, cụ ta ăn một bát cơm, một quả trứng, sau đó cụ sai con cháu vào trải chiếu cho cụ nằm nghỉ ở sàn đến sáng mai dậy sớm gọi con cháu dậy làm cơm ăn. Có khi cụ chỉ giả ngủ một lúc rồi trở dậy nói: “Trời sáng rồi, đêm qua ngủ ngon lắm.”
Đêm ấy trong căn nhà mới, dưới ánh sáng của ngọn lửa bếp, gia chủ mời mọi người đến vui uống rượu cần. Gia chủ còn vãi thóc đã rang cho bọn trẻ nhặt ăn và bê rổ ốc luộc để các bà vừa nhảy ăn, vừa nói chuyện.
4. Hội chùa Kè:
Là một hội lớn. Hàng năm tổ chức vào ngày 16/2 âm lịch, thu hút dân chúng mấy xã vùng thượng mường Bi về dự. Chùa lợp gianh, tương truyền ở trong đó có hòn đá gọi là bụt mọc. Chùa không có sư chủ trì. Người về dự tự cầu có nhắc câu: A di đà phật. Cái hấp dẫn chính của hội chùa Kè là các hình thức sinh hoạt văn hoá. Ở đó hàng năm có tổ chức vui ném còn cho trai gái trước cửa nhà phật. Có bãi đánh quay cho các em 10 đến 18 tuổi. Có bãi thi bắn tên và bắn súng hoả mai. Ai bắn trúng đích được thưởng uống một gáo rượu cần. Năm nào được mùa, mổ trâu tế phật có tổ chức vui thổi khèn, séc Pùa. Người đến dự hội gồm đủ loại người, ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Các bố mế vui vầy quanh cảnh rượu cần. Con trai quan cun, nhà giầu có khoe những khẩu súng hoả mai dài 7 đến 9 đốt và cùng nhau trổ tài bắn súng. Trai gái thường dân say sưa với trái còn và những cái nỏ được vót gọt cầu kỳ. Các bà, các cô khoe những bộ váy áo mới, thể hiện tài thêu thùa canh cửi của mình.
Đây là ngày hội chùa lớn đã đi sâu vào ký ức nhiều người vùng thượng mường Bi
Như trên, chúng tôi đã dẫn ra những hội, lễ tiêu biểu của vùng Bi, có thể nói, xưa, những lễ nghi mang tình hội ở vùng này klhông rõ. Đọng trong ký ức của già mường có ba lễ lớn gọi là có mang tính hội một chút. Hội xuống đồng sửa mương Lò ở Địch Giáo thuần tuý lấy số người đông của bẩy xã thung lũng làm nền cho hội nên có không khí hội mà thiếu các hành động hội. Lẽ rước kiệu Thánh Tản ở xã Phong Phú, loại đi cái vui vẻ đương nhiên của tục uống rượu cần vốn nhà nào ở mường Bi cũng diễn ra thì hành động hội hiện lên mở nhạt qua các đường còn bay qua lại trước đền. Hội Chù Kè ở xã Phú Vinh tuy phong phú trò vui nhưng lại ngẫu hứng chưa có quy mô tổ chức nên không điển hình cho một hội của toàn mường.
Ngược lại, cái khắc rõ vào đời sống văn hoá người mường Bi là hướng về lễ, những lễ nghi nông nghiệp hay tín ngưỡng, tục thờ, thu gọn trong một gia đình ( tết cơm mới , làm vía, dựng nhà…) hay mở rộng ra trong một xóm, một mường nhỏ ( lễ cầu mưa - cầu mát ...) - Những ngày lễ ấy, con người chấp nhanạ một thể thức trang nghiêm, được đặt ra như một tiền lệ hơn là sự bộc cảm, sự phô diễn những tài năng của cá nhân trước thiên nhiên và con người để hướng con người tới cái đẹp của nghệ thuật mà ở bất cứ hội nào cũng phải diễn ra. Điều ấy, âu cũng phản ánh phần nào cái nếp sống thâm trầm, chừng mực, biết khiêm nhường, hướng vào chiều sâu nội tâm của con người mường Bi. đấy là một giả đinh.