Nhà cổ Huỳnh phủ (Hương Liêm, Đại Điền, Bến Tre) - Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
Theo lời truyền miệng từ đời trước, ông Khiêm là người miền Trung vào miền Nam lập nghiệp, từ lúc còn trắng tay cho đến khi lập nên sự nghiệp giàu có vào bậc nhất ở vùng cù lao Minh và đất Bến Tre lúc bấy giờ.
Ngôi nhà ông xây dựng có diện tích trên 500m2 (rộng khoảng 17m, dài 25m, cao 5,70m) được cất theo kiểu nhà xuyên trính, hình chữ nhất, ba gian hai chái ba và hai liễm đôi theo kiểu chái bắt vần với liễm.
Nhà có 48 cây cột bằng gỗ lim, đường kính của cột từ 0,40 - 0,50m (kể cả cột chái và cột liễm) và 32 cột gạch (hàng cột thứ tư) thay cho cột gỗ bị hư hỏng vào những năm 1945 - 1954. Kèo là những thanh gỗ to đẽo cong chạy chỉ viền và chạm nổi hoa văn, đầu kèo chạm hình rồng. Nền xây tam cấp, lót gạch tàu, mái lợp ngói âm dương.
Nội thất chia thành 2 phần: từ cột nhứt của mặt hậu trở vào sử dụng sinh hoạt gia đình, từ cột nhứt của mặt hậu trở ra cột hàng nhì của mặt tiền sử dụng vào việc thờ tự. Liễm và chái mặt tiền sử dụng chủ yếu vào việc phục vụ lễ tân. Mỗi căn bố trí một khánh thờ xếp thành 2 lớp, chạm trổ công phu, sơn son thếp vàng tất cả đều được đặt trên ghế thờ.
Phía tả thờ Cửu Huyền Thất Tổ, giữa thờ Phật Bà Quan Âm; phía hữu thờ ông, bà Huỳnh Ngọc Khiêm. Khánh thờ Phật Bà Quan Âm chạm trổ long, lân, phụng theo lối song phụng tranh châu, nền đế là 2 kỳ lân đối diện, cùng nhe nanh, mặt hướng ra ngoài, chân trụ chạm rồng 3 móng, mặt hướng lên trên (theo truyền tụng rồng 3 móng thường dành cho dân thượng lưu, rồng 4 móng dành cho quan lại, rồng 5 móng dành cho vua).
Hai khánh thờ còn lại chạm hình hoa trái, công phụng gặp bầy. Nền đế chạm nhiều loại trái cây, thân trụ chạm chim, hoa, cây, trái,… Phía trên chạm hoa, cây, trái cùng hướng vào vầng thái dương.
Tất cả các bức hoành phi, bài vị, biển đề,…đều viết bằng chữ Hán khắc vào gỗ, chạm trổ hoa văn rất công phu, được sơn son thiếp vàng hoặc cẩn xà cừ, có tuổi đời tương đương với tuổi thọ ngôi nhà.
Thợ làm nhà là những người thợ có thể từ miền Trung hoặc miền Bắc vào, nơi vốn nổi tiếng với nghề chạm khắc gỗ từ lâu đời. Tài hoa của thợ thủ công có kỹ - nghệ thuật khắc gỗ, chạm lộng điêu luyện phải kể đến các bức vách trước các gian giữa với diện tích gần 100m2. Đó là bức tranh mô tả cảnh vật thiên nhiên rất sinh động của vùng đồng bằng sông nước, của vùng đất cù lao bốn mùa cây xanh, trái ngọt. Với cảnh vật thanh bình, chim muôn ca hát cùng các loại sinh vật khác được chạm trổ rất công phu. Theo truyền tụng, thời gian hoàn thành vách phên tương đương với thời gian từ dở gỗ đến gát đòn dông (khoảng trên 10 năm).
Tiền công thù lao cho người thợ không tính bằng ngày công mà tính bằng khối lượng dăm bào sau một ngày lao động. Mỗi chén dăm bào được trả 5 cắc bạc, riêng thợ cái được trả 2 đồng một ngày, cơm nước chủ nhà đài thọ (thời gian này một giạ lúa bằng 1,8 cắc bạc).
Không ai biết ngôi nhà được xây dựng vào năm nào, chỉ biết mất một thời gian rất dài mới hoàn thành với những chuyện kể gần như là giai thoại. Chuyện kể rằng, các người thợ lúc kéo gỗ khởi công làm nhà ăn bưởi và ném hột quanh nhà. Rồi hột bưởi nẩy mầm thành cây, lớn lên cho trái chín mà ngôi nhà vẫn chưa xong (một cây bưởi trồng từ hột phải từ 6 – 7 năm mới cho trái). Khi người thợ cả mất, ông chủ rước vợ con người ấy vào và lo đám tang an toàn. Các thợ làm nhà khi còn bé cho đến khi lớn lên được ông đứng ra lo việc vợ con mà ngôi nhà vẫn chưa hoàn thành.
Nhưng nếu căn cứ vào bức hoành phi mừng tân gia họ Huỳnh của Tri huyện Bảo An Thái Hữu Võ tặng vào năm Giáp Thìn (huyện Bảo An thuộc cù lao Bảo, tỉnh Bến Tre lúc bấy giờ) thì ta biết rằng ngôi nhà được hoàn thành trước năm Giáp Thìn (1904) vì năm 1904 là năm tổ chức ăn tân gia. Vì thế có thể ngôi nhà được xây dựng vào khoảng cuối thập niên 80 hoặc đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX.
Nhìn các công trình chạm khắc gỗ dày đặc và tỉ mỉ ở nội thất ngôi nhà, chúng ta thấy thời gian xây dựng kéo dài là hoàn toàn hợp lý khi mà ở thời điểm đó toàn bộ các công việc từ cưa, xẻ gỗ đến tiện, đục, bào, chạm đều được làm bằng thủ công.
Đây là một ngôi nhà cổ có kiến trúc đẹp thuộc dạng hiếm hoi của tỉnh Bến Tre. Nội thất ngôi nhà trang trí các bức hoành phi sơn son thếp vàng, liễn áp cột cẩn ốc xà cừ, các hoa văn chạm khắc gỗ thể hiện các đề tài như bát bửu, tứ linh, tứ quí, sen hạc, tùng lộc, bách điểu, Nhị Thập Tứ Hiếu,… Công trình ngoài nội dung trang trí còn mang ý nghĩa cầu mong đa phúc, đa lộc, an khang, thịnh vượng cho gia chủ.
Khu mộ cách ngôi nhà cổ 3km thuộc xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú, có diện tích 966m2 (34,5m x 28m) được tạo lập vào năm Tân Hợi (1911) để chuẩn bị cho hậu sự của mình. Vật liệu xây dựng là đá xanh từ hàng rào bên ngoài cho đến phần lăng mộ bên trong. Rào cao khoảng 1,5m gồm 2 phần: trên là những thanh đá được cắt hình chữ nhật hoặc hình tam giác, phần dưới là những phiến đá nguyên. Mái cổng làm 2 tầng, tạc hình ngói ống tre, nóc mái trên trang trí hình con dơi, giữa 2 tầng mái là hoa văn dây leo, phần dưới cùng là hoa văn dây leo và quả lựu.
Bên trong khu mộ được chia làm 2 phần: bên trong là nền xi-măng được kè đá xanh chung quanh - nơi mộ của ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm, bên ngoài là nền đất có 4 ngôi mộ.
Các mộ bên ngoài gồm có mộ ông Hội đồng Huỳnh Ngọc Cứ (con ông Huỳnh Ngọc Khiêm) và vợ là bà Ngô Thị Châu cùng với mộ của bà Huỳnh Thị Điểu và ông Huỳnh Ngọc Hổ (là anh em của ông Huỳnh Ngọc Cứ).
Hai ngôi mộ của ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm làm giống nhau theo kiểu lăng mộ với tường đá cao bao bọc xung quanh. Chân mộ là tấm bia cao 1,5m, rộng 1,2m có mái che với hoa văn trên nóc và chân bia. Mặt trước bia khắc chữ Hán với nội dung là ngày tháng năm tạo lập khu mộ, tên tuổi, ngày sinh, ngày mất của người chết và tên người lập phần mộ.
Mộ bà cũng được làm và trang trí giống như mộ ông nhưng hoa văn trang trí và nội dung các câu chữ Hán thì khác nhau. Công trình thể hiện nét tài hoa của người thợ điêu khắc đá với nhiều hoa văn tinh xảo: dơi, dây leo, quả lựu, mãng cầu,…cùng với các con vật như tùng, lộc, lân, nghê,… và cột, trụ đá khắc chữ Hán.
Nhà cổ Huỳnh phủ (Hương Liêm) thuộc xã Đại Điền và khu mộ thuộc xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia tại Quyết định số 1251/QĐ-BVHTTDL ngày 14/4/2011.