Đậm đà hương vị Trà của người Việt
Mùa đông, người ta xuýt xoa, ủ nóng tay bằng tách trà. Mùa hè, một chén trà hay ly trà đá dường như có thể làm dịu ngay cơn khát. Vui cũng uống, buồn cũng uống, rồi sau những bữa tiệc trang trọng nhất cũng không thể thiếu tách trà. Uống rượu, uống bia, uống cà phê song rồi lại làm một tách trà! Trà là cái bắt đầu, là cái kết thúc. Sự tha thiết ấy phải chăng vì trà là một vật trung gian, một chỗ dựa để chia sẻ.
Khi khách đến chơi thì chủ nhà dù có bận đến mấy cũng dừng việc, rửa tay sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề, rồi xúc ấm, tráng chén pha trà mời khách. Người bình dân uống kiểu bình dân, quan lại, quý tộc có tiệc trà kiểu quý tộc. Tất cả đều thể hiện sự trân trọng, lòng hiếu khách. Bên ấm trà nóng, biết bao điều được đề cập, được thổ lộ, từ những việc hệ trọng đến những lời trao đổi bình dị nhất.
Dù bắt nguồn từ đâu, uống trà đã trở thành một phong tục và thói quen với mọi người Việt Nam. Khi đến chơi nhà, khách không thể từ chối một ly trà nóng khi thân chủ trân trọng dâng mời bằng hai tay. Mời trà đã là một ứng sử văn hoá biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Uống trà cũng lại là một cách ứng sử văn hoá. Uống từng ngụm nhỏ để cảm thức hết các dư vị của trà, uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu một lời tâm sự, để bàn chuyện gia đình xã hội, chuyện thế thái nhân tình. Mời trà và dùng trà cũng là một biểu hiện sự tri kỷ, sự kết giao, lòng mong muốn hoà hợp. Những khía cạnh của văn hoá ứng xử Việt Nam rất phong phú, người ta có thể uống trà một cách im lặng, và nhiều khi im lặng là “nói” rồi. Người ta có thể xét đoán tâm lý người đối thoại khi dùng trà. Khi trà đã trở thành một cái thú thì người ta không thể quên nó vì trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, sự tỉnh táo, sự tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác.
Để pha trà, phải chọn lựa ấm, chén thích hợp với từng loại tiệc trà. Theo cách uống cầu kỳ cổ xưa, thường một bộ đồ trà có 4 cái chén quân và 1 cái chén tống để chuyên trà hoặc gạn trà. Nước pha trà lựa thứ nước mưa trong hoặc thứ sương đọng trên lá sen trên mặt hồ, người ta đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sáng. Phương ngôn còn lưu truyền những lời dạy về cách dùng trà hợp lý như “trà dư, tửu hậu”, “tửu sáng, trà trưa”, “rượu ngâm nga, trà liền tay”. Khi nước gần sôi, nhúm một ít trà trong hộp bỏ vào ấm chuyên, đổ nước sôi vào mau, đổ đầy cho nước tràn ra chiếc bát đựng ấm chuyên, làm nóng cả bề ngoài chiếc ấm. Đấy là một cách để giữ vị trà và cũng là để giữ cho ấm trà nóng đều. Sau đó chắt nước từ ấm chuyên ra chiếc chén tống. Sau đó chủ nhà mới từ từ gạn sang chiếc chén hạt mít sao cho chủ và khách chỉ có được hai chén lưng lưng mà thôi. Nhiều gia đình ở Hà Nội thích uống trà ướp sen, nhài. Đặc biệt trà sen là một thứ trà để tiếp khách quý hoặc làm quà biếu. Trà sen tựa thứ trà mạn Hà Giang, ướp với hoa sen chưa bóc cánh với độ hương cao nhất. Nhưng lại có những người sành trà suốt đời chỉ uống trà “mộc” nghĩa là trà không ướp hương. Họ bảo:
“Chè ngon xin chớ ướp hoa
Ướp hoa chân vị khác xa mất rồi”.
Cách uống trà xanh của người Việt Nam giống người Hán ở ba điểm: không pha đường, uống nóng, kiêng dầu mỡ. Mỗi gia đình đều có một bộ ấm chén pha trà bằng sứ Hải Dương, sứ Trung Quốc hoặc gốm Bát Tràng. Rất ít người còn lưu giữ được những bộ sứ Giang Tây hoặc bộ đồ trà cổ với ấm, chén hạt mít bằng gốm màu gan gà. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt đĩa phẳng thì chén không nghiêng, lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi, dùng siêu đất đun nước pha trà ngon hơn dùng siêu bằng đồng...
Trà là sự giao hoà với thiên nhiên, sự ứng sử hợp lý với thời gian, sự tiếp cận đầy nhân tính với không gian, môi trường và con người. Ở Việt Nam luôn tồn tại một nền văn hoá trà thanh lịch và toả hương, người Việt Nam trả nghĩa một cách giản dị, khiêm tốn. Qua ứng sử với trà, người dân Việt Nam coi trà là một người bạn thuỷ chung thân thiết.