Gốm Cậy(Hải Dương)- Làng gốm cổ lâu đời của Việt Nam
Cậy là tên nôm của làng Kệ Gián, thuộc tổng Binh Dã, huyện Đường An, thời Lê, nằm bên hữu ngạn sông Kẻ Sặt. Sát làng Cậy có làng Hương Gián, sau đổi là làng Nam Gián, thuộc tổng Triền Đỗ cùng huyện. Cả hai làng này cùng dựng lò gốm, công nghệ làm gốm hai làng giống nhau. Vì nằm sát bến đò Cậy nên người dân quanh vùng vẫn quen gọi vùng gốm nơi này là gốm Cậy.
Làng Cậy có trên 600 hộ, ngót 300 khẩu, hơn 300 mẫu ruộng. Người đông, ruộng đất ít, công nghệ gốm đã thu hút nhiều người tham gia. Khách lạ đến làng Cậy, cũng dễ nhận ra nơi đây là làng gốm cổ. Làng nằm bên bờ sông, nằm trên tầng tầng lớp lớp gốm vỡ. Đường làng ngõ xóm hầu như được làm từ các mảnh gốm.
Làng Cậy có ngôi đình lớn, thờ thành hoàng Bảo Phúc Đại Vương, sống vào đời Hùng Vương thứ 17, có công giúp Vua Hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không biết có phải ngài là ông tổ nghề gốm ở đây không? Hay chăng tổ nghề ở đây chỉ là truyền thuyết?
Sản phẩm gốm ở Cậy cũng rất đa dạng. Nào bát, đĩa, ấm, chén, bình hoa... Nhưng đặc biệt là có loại gạch lớn được nung rất khéo. Gạch này vốn là bao thơi của gốm. Gạch của làng Cậy chín già, có kích thước lớn, thường được dùng làm chân kê cột đình, cột chùa và lát các lối đi trong đền, đình rất đẹp.
Các lò gốm ở Cậy lấy nguyên liệu đất sét ở đâu? Theo các cụ già ở làng, từ xa xưa, người thợ gốm Cậy lấy đất sét ở hai bờ sông của làng làm gốm. Loại đất sét này rất mịn, tạo ra sản phẩm gốm óng chuốt. Sau này, nguồn đất sét ở quê cạn kiệt, người thợ gốm Cậy phải dùng đất sét cao lanh khai thác tận Đông Triều - Quảng Ninh. Ngày nay, men gốm Cậy vẫn phải dùng đất sét cao lanh ở Hồ Lao, Đông Triều, nghiền lẫn cùng tro trấu, tro củi lọc kỹ. Men gốm Cậy thường là men màu lam nhạt, mang phong cách gốm Cậy, khác hẳn gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng.
Theo một số tư liệu, gốm Cậy đã từng chiếm được thị trường trong và ngoài nước. Hiện tại, ở Bảo tảng Cổ vật Topkápu Sarêgi tại
Từng là một trong những địa chỉ “danh bất hư truyền” của gốm, tuy nhiên, hiện làng Cậy chỉ còn hơn 10 hộ duy trì nghề sành sứ, sản phẩm chủ yếu vẫn là chén bát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và manh mún. Hiện làng chỉ còn hai nghệ nhân gìn giữ được kỹ thuật bí truyền của gốm cổ xưa.