Huyền thoại làng địa đạo Vịnh Mốc, Quảng Trị
Vĩnh Linh (Quảng Trị) có 20 xã thì ba xã miền núi, ba xã đồng bằng không đào được địa đạo, còn lại 14 xã và một thị trấn đã có 114 làng hầm địa đạo với độ nối dài đến 40 km. Trong những làng hầm địa đạo đó, chỉ có làng địa đạo Vịnh Mốc được bảo tồn nguyên vẹn, là công trình tiêu biểu cho hệ thống làng hầm địa đạo Vĩnh Linh. Ðịa đạo Vịnh Mốc là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê nằm sát bờ biển, cách cửa Tùng (sông Bến Hải) sáu km về phía bắc, được xây dựng và kiến tạo trong lòng đất, với chiều sâu từ 20 đến 28 m. Vịnh Mốc có ba địa đạo chính được nối thông nhau thành một hệ thống liên hoàn, khép kín với quy mô lớn. Hệ thống đường hầm có tổng chiều dài 2.034 m, trục đường chính dài 769 m, cao từ 1,5 đến 1,8 m, rộng từ 1,1 đến 2 m.
Từ trục chính địa đạo được cấu tạo thành nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa hầm (lối ra vào). Ðịa đạo có tất cả 13 cửa, bảy cửa thông ra biển, sáu cửa thông lên đồi, mỗi cửa hầm coi như một lỗ thông hơi. Tại các cửa hầm đều có làm khung gỗ chống sập và thường xuyên được gia cố để chống sụt lở. Hai bên trục đường chính cách nhau từ ba đến năm mét lại khoét lõm sâu vào thành một ô nhỏ, dùng làm nơi sinh hoạt của một gia đình. Ðịa đạo được cấu tạo thành ba tầng. Tầng một sâu cách mặt đất từ 12 đến 15 m, là nơi sinh sống của nhân dân. Tầng hai sâu 18 m là nơi đóng trụ sở của Ðảng ủy, UBND và Bộ Chỉ huy quân sự. Tầng ba sâu 22 m dùng làm kho chứa hậu cần cung cấp cho đảo Cồn Cỏ và phục vụ chiến đấu của quân dân Vịnh Mốc. Ðể bảo đảm cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta xây dựng rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho ba đến bốn người ở. Trong lòng địa đạo có ba giếng nước, hội trường với sức chứa 50 người, bệnh xá, nhà hộ sinh, trạm phẫu thuật, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm đặt máy điện thoại... Ðịa đạo là nơi ở của nhân dân trong những năm chiến tranh ác liệt, lúc đông nhất có khoảng 1.200 người sinh sống trong địa đạo. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại, trong lòng địa đạo không một người nào bị thương và đã có 17 em bé chào đời, đủ nói lên giá trị và ý nghĩa của địa đạo Vịnh Mốc, đồng thời là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
Làng hầm địa đạo không chỉ để tránh bom đạn, bảo toàn mạng sống, những người dân nơi đây còn tổ chức đánh địch ngay trong lòng đất quê hương, tập kết vận chuyển vũ khí, cấp cứu thương binh và vận chuyển hàng trăm chuyến hàng cảm tử cho đảo Cồn Cỏ (cách bờ 28 km). Ðảo Cồn Cỏ đứng vững và được Nhà nước tuyên dương Anh hùng hai lần trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng địa đạo Vịnh Mốc.
Làng địa đạo Vịnh Mốc đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích Quốc gia và đưa vào danh mục các di tích đặc biệt quan trọng. Từ đó đến nay, địa đạo Vịnh Mốc đã được trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị. Du khách trong và ngoài nước đến đây ngày càng đông không chỉ để chiêm ngưỡng kỳ tích độc đáo này, mà còn có dịp cảm nhận, thán phục tài năng, ý chí và nghị lực phi thường của con người Vĩnh Linh cũng như của nhân dân Việt Nam.