WEF điều chỉnh cách đánh giá Chỉ số năng lực phát triển du lịch, loạt nước Đông Nam Á tụt hạng
Bộ chỉ số Năng lực phát triển du lịch toàn cầu năm 2024 được tái thiết kế gồm 5 nhóm, 17 chỉ số trụ cột và 102 chỉ số thành phần (Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới)
Điều chỉnh chỉ số đánh giá
Báo cáo Chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu 2021 lần đầu tiên được Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố là sự thay đổi lớn của tổ chức này sau 15 năm áp dụng Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch. Sự điều chỉnh này bắt nguồn từ việc Diễn đàn Kinh tế thế giới thay đổi cách tiếp cận theo hướng phát triển bền vững sau những tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19.
Chỉ số năng lực phát triển du lịch năm 2021 được thiết kế theo 5 nhóm với 17 chỉ số trụ cột và 112 chỉ số thành phần. Tuy nhiên, năm 2024, một lần nữa Diễn đàn Kinh tế thế giới tái thiết kế Chỉ số năng lực phát triển du lịch năm 2024 gồm 5 nhóm, 17 chỉ số trụ cột và 102 chỉ số thành phần, trong đó, đã có những thay đổi khá quan trọng.
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới, chỉ số cũ "Mức độ mở cửa quốc tế" đã được thay thế bằng chỉ số mới "Mức độ mở cửa du lịch" tập trung hơn rất nhiều vào các chính sách tạo thuận lợi cho du lịch quốc tế, bao gồm: Yêu cầu về thị thực nhập cảnh; Số lượng thỏa thuận về hàng không; Chỉ số về lòng hiếu khách; Chỉ số uy tín về hộ chiếu.
Chỉ số cũ "Sự bền vững về kinh tế-xã hội" được thay thế bằng chỉ số mới "Tác động kinh tế-xã hội của du lịch" nhằm đo lường những tác động lan tỏa của du lịch đến kinh tế-xã hội như việc làm, thu nhập, bình đẳng giới... Chỉ số mới này sẽ giúp đánh giá tách bạch hơn đóng góp trực tiếp của du lịch thông qua nguồn thu từ khách du lịch và đóng góp lan tỏa của du lịch đến kinh tế và xã hội.
Bên cạnh đó, một số chỉ số được đổi tên như: nhóm "Cơ sở hạ tầng" được đổi tên thành "Cơ sở hạ tầng và Dịch vụ", chỉ số "Hạ tầng dịch vụ du lịch" được đổi tên thành "Hạ tầng và Dịch vụ du lịch" để phản ánh mối liên hệ giữa hạ tầng du lịch (ví dụ như phòng lưu trú) với yếu tố đầu tư và năng suất, qua đó phản ánh chất lượng dịch vụ du lịch. Chỉ số "Sức ép và tác động của nhu cầu du lịch" được đổi tên thành "Sự bền vững của nhu cầu du lịch" để thể hiện rõ hơn nội hàm của chỉ số này.
Nhiều nước Đông Nam Á tụt hạng, Việt Nam giảm 3 bậc
Với một số thay đổi khá căn bản, để đảm bảo tính so sánh đồng bộ, Diễn đàn Kinh tế đã tính toán lại điểm số và xếp hạng Chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu năm 2019 và 2021 theo bộ chỉ số mới của năm 2024. Theo đó, chỉ số năng lực phát triển du lịch của Việt Nam năm 2019 xếp hạng 63/140 nền kinh tế (đạt 3,84 điểm); năm 2021 xếp hạng 56/117 nền kinh tế (đạt 4,0 điểm); năm 2024 xếp hạng 59/119 nền kinh tế (đạt 3,96 điểm) - giảm 3 bậc so với năm 2021.
Đáng chú ý, theo khung đánh giá mới, nhiều quốc gia trong khu vực bị tụt hạng như Thái Lan giảm 12 bậc, Singapore giảm 4 bậc, Malaysia giảm 2 bậc, Campuchia giảm 1 bậc. Indonesia, Lào giữ nguyên hạng. Philippines tăng 1 bậc.
Thái Lan là nước bị tụt hạng chỉ số nhiều nhất trong khu vực khi giảm 12 bậc. (Ảnh minh họa)
Năm 2024, trong Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 5, sau Singapore (hạng 13), Indonesia (22), Malaysia (35), Thái Lan (47). Việt Nam xếp trên Philippines (69), Campuchia (86), Lào (91). Brunei không có trong danh sách xếp hạng.
Năm nay, Việt Nam có 4 chỉ số trong nhóm hàng đầu thế giới (hạng 1-35). Chỉ số có thứ hạng tốt nhất tiếp tục là Sức cạnh tranh về giá (hạng 16). An toàn, an ninh (23), Tài nguyên tự nhiên (26), Tài nguyên văn hóa (28) tiếp tục được đánh giá cao.
Bảy chỉ số trụ cột nằm trong nhóm hạng trung bình cao (hạng 36-70) của thế giới gồm có: Tài nguyên phi giải trí (hạng 38); Hạ tầng hàng không (43); Nhân lực và thị trường lao động (49); Sự bền vững về nhu cầu du lịch (54); Hạ tầng mặt đất và cảng (54); Mức độ sẵn sàng về CNTT và truyền thông (57); Môi trường kinh doanh (65). Như vậy 11/17 chỉ số trụ cột của Việt Nam được xếp hạng từ trung bình cao đến hàng đầu thế giới.
Sáu chỉ số của Việt Nam rơi vào hạng trung bình thấp và thấp của thế giới (hạng 71-119), gồm có: Hạ tầng và Dịch vụ du lịch (hạng 80); Mức độ mở cửa du lịch (80); Y tế và vệ sinh (81); Sự bền vững về môi trường (93); Mức độ ưu tiên cho du lịch (98); Tác động kinh tế-xã hội của du lịch (115).
Chỉ số Hạ tầng hàng không của Việt Nam giảm 17 bậc. (Ảnh minh họa)
Có 5 chỉ số tăng hạng gồm: Sức cạnh tranh về giá (tăng 4 bậc); Mức độ sẵn sàng về CNTT và truyền thông (tăng 3 bậc); Hạ tầng và Dịch vụ du lịch (tăng 4 bậc); Mức độ mở cửa du lịch (tăng 2 bậc); Y tế và vệ sinh (tăng 1 bậc).
Tuy nhiên, một số chỉ số trụ cột tụt hạng mạnh như Hạ tầng hàng không giảm 17 bậc; Sự bền vững về nhu cầu du lịch giảm 24 bậc. Hai chỉ số mới đều xếp hạng thấp: Mức độ mở cửa du lịch xếp hạng 80; Tác động kinh tế-xã hội của du lịch xếp hạng 115.
Một số bất cập trong đánh giá
Chỉ trong 3 năm từ 2021-2024, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã hai lần điều chỉnh chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu cho thấy bộ chỉ số này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Trong bối cảnh mới sau dịch bệnh, các chuyên gia của Diễn đàn Kinh tế thế giới vẫn tiếp tục có sự chuyển biến về tư duy, cách tiếp cận và phương pháp đánh giá. Những sự thay đổi này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng các chỉ số của mỗi nền kinh tế.
Đáng chú ý, chỉ số mới “Tác động kinh tế-xã hội của du lịch” của Việt Nam chỉ xếp hạng 115/119 nền kinh tế là khá bất ngờ. Du lịch là ngành kinh tế rất quan trọng của nước ta. Trong các Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng, quý, năm của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lĩnh vực du lịch, dịch vụ thường xuyên được đánh giá là điểm sáng trong nền kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, tạo động lực thúc đẩy nhiều ngành, lĩnh vực khác. Kết quả xếp hạng chỉ số này chưa phản ánh thật sự chính xác tác động của du lịch Việt Nam đến phát triển kinh tế - xã hội, có thể do Diễn đàn Kinh tế thế giới chưa có đầy đủ dữ liệu thống kê cập nhật về du lịch Việt Nam.
Tương tự, chỉ số “Mức độ mở cửa du lịch” của Việt Nam xếp hạng 80, trong nhóm trung bình thấp của thế giới. Chỉ số này gồm có 4 chỉ số thành phần, trong đó "Yêu cầu về thị thực nhập cảnh" được đánh giá dựa trên báo cáo của Tổ chức Du lịch thế giới về Độ mở Thị thực năm 2015 (UNWTO Visa Openness Report 2015) là đã lạc hậu, chưa phản ánh được sự cải thiện lớn về chính sách thị thực của Việt Nam vừa qua. Từ ngày 15/8/2023, Việt Nam đã chính thức áp dụng chính sách cấp thị thực điện tử cho công dân tất cả các nước với thời hạn tạm trú được nâng từ 30 ngày lên đến 90 ngày; và nâng thời hạn tạm trú từ 15 ngày lên đến 45 ngày cho công dân các nước được miễn thị thực vào Việt Nam. Đây là bước đột phá về tạo thuận lợi cho đi lại du lịch, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, đã tạo động lực quan trọng cho sự phục hồi mạnh mẽ khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong thời gian qua.
Phương hướng cải thiện Chỉ số năng lực phát triển du lịch của Việt Nam
Trước hết, trong thời gian tới, ngành du lịch cần phối hợp với các cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ số liệu cập nhật về du lịch Việt Nam cho Diễn đàn Kinh tế thế giới để đánh giá đúng tác động kinh tế - xã hội của du lịch cũng như chính sách thị thực của Việt Nam.
Ngành du lịch Việt Nam cần tiếp tục phát huy các thế mạnh nổi trội, đa dạng hóa sản phẩm để kéo dài thời gian lưu trú du khách, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, giảm tải ở những trọng điểm du lịch. (Ảnh minh họa)
Đồng thời, tiếp tục phát huy các thế mạnh nổi trội của Việt Nam về sức cạnh tranh về giá, tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hóa, mức độ an toàn, an ninh. Tăng cường công tác bảo tồn, phát huy các giá trị đặc sắc về di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên ở các địa phương.
Đối với một số chỉ số bị tụt hạng nhiều như chỉ số "Hạ tầng hàng không" (giảm 17 bậc), cần kiến nghị ngành hàng không tiếp tục nâng cao năng lực phục vụ vận tải hành khách, cải thiện chất lượng dịch vụ, tăng số lượng ghế cung ứng, mở rộng kết nối mạng bay trong và ngoài nước, giảm giá vé máy bay để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Để cải thiện chỉ số "Sự bền vững về nhu cầu du lịch" (giảm 24 bậc), ngành du lịch cần phát triển thêm tour du lịch, sản phẩm du lịch hấp dẫn để khách du lịch quốc tế tăng thời gian lưu trú tại Việt Nam. Đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu du khách quanh năm để giảm tính mùa vụ của du lịch quốc tế. Phát triển thêm các điểm đến mới, điểm đến thứ cấp nhằm giảm thiểu tình trạng quá tải tại một số trọng điểm du lịch.
Bên cạnh đó, đối với một số hạn chế cố hữu đã tồn tại qua nhiều kỳ báo cáo như chỉ số "Y tế và vệ sinh" (hạng 81) và "Sự bền vững về môi trường" (hạng 93), cần có sự vào cuộc quyết liệt, mạnh mẽ của các địa phương triển khai các biện pháp bảo đảm vệ sinh môi trường xanh, sạch, đẹp, văn minh tại điểm đến theo phương châm “Sản phẩm đặc sắc - Dịch vụ chuyên nghiệp - Thủ tục thuận tiện, đơn giản - Giá cả cạnh tranh - Môi trường vệ sinh sạch, đẹp - Điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện” như Nghị quyết 82 của Chính phủ đã nêu.
Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy các chỉ số trong nhóm trung bình cao và còn nhiều dư địa tăng trưởng như: “Tài nguyên phi giải trí”, "Nhân lực và thị trường lao động", "Mức độ sẵn sàng về CNTT và truyền thông"... Trong đó cần tiếp tục quan tâm tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Tiếp tục đẩy nhanh chuyển đổi số trong ngành du lịch theo hướng hình thành hệ sinh thái du lịch thông minh đồng bộ, thống nhất theo tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết 82 của Chính phủ và Chỉ thị 08 của Thủ tướng Chính phủ.
Trung tâm Thông tin du lịch