Buôn cổ M’liêng - điểm du lịch nổi tiếng ở Đắk Lắk
Buôn cổ M’liêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk là một trong những buôn làng hiếm hoi còn lưu giữ được những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống của Tây Nguyên.
Buôn M’liêng tọa lạc cạnh hồ Lắk - một địa danh du lịch nổi tiếng của tỉnh Đắk Lắk. Đây cũng là điểm tham quan không thể thiếu trong tour du lịch văn hóa-sinh thái của du khách khi đến nơi đây. Du khách có thể cảm nhận được về một Tây Nguyên hoang sơ, hùng vĩ cùng những giá trị văn hóa truyền thống của người M’nông R’lâm.
Trái với nhịp điệu cuộc sống chỉ cách chưa đến một km cuộc sống hiện đại của một vùng du lịch phát triển bậc nhất ở Đắk Lắk, với ánh sáng của chốn đô thị cùng những thứ văn hóa pha tạp, không gian của buôn M’liêng thanh bình, cổ kính như một Tây Nguyên của hàng trăm năm trước.
Nét đặc biệt dễ thấy ở buôn M’liêng là 100% gia đình ở đây còn giữ được những nếp nhà dài truyền thống của người M’nông. Hầu hết những nếp nhà dài truyền thống ấy được làm bằng thứ vật liệu khai thác từ rừng núi Tây Nguyên.
Già làng Y Đrỡng Bkrông tiếp khách bên bếp lửa bập bùng trên sàn ngôi nhà dài truyền thống với hai hàng cột gỗ làm từ cây sao, căm xe, cà chít được tạc thô, to đầy vòng tay một người ôm. Đây chỉ là một trong số hơn 100 ngôi nhà dài kiến trúc truyền thống của người M’nông của buôn M’liêng.
Mỗi ngôi nhà như vậy có chiều dài tối thiểu tới 30m, chia ra ít nhất năm gian, đủ cho ba gia đình nhỏ có thể sinh hoạt khá thoải mái. Để làm được một nhà dài phải tốn hàng trăm cây gỗ lớn; người ta phải mất nhiều năm trời vào rừng chọn cây to, làm lễ cúng thần rừng, hạ cây và dùng voi khỏe kéo cây rừng về buôn.
Rất nhiều gia đình còn giữ được ghế Kpan - nơi trang trọng để các nghệ nhân ngồi diễn tấu cồng chiêng trong các dịp lễ hội của người M’nông - với chiều dài hơn 20m, lòng ghế rộng hơn một mét; cùng nhiều chiêng cổ, ché cổ, trống làm bằng da hai con trâu lớn, trống da voi còn được lưu giữ.
Trong ngôi nhà của già làng Y Đrỡng vẫn còn lưu giữ ghế Kpan dài gần 30m, tám chiếc ché cổ, ba bộ chiêng quý truyền lại từ nhiều đời nay. Ông cho biết những thứ này hồi xưa giá trị bằng cả đàn trâu, mấy con voi đó. Chúng là vật thiêng, vật quý giá nhất của người M’nông.
Một bất ngờ khác, người dân trong buôn vẫn làm các nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm, mộc và đánh bắt cá trên hồ Lắk, dọc các con suối lớn theo luật tục... Dù trải qua nhiều biến động, bây giờ trong buôn đã không còn nhà nào có voi, nhưng không gian thiêng của buôn với những con suối, sông, bến nước, bến voi vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Người già trong buôn không ai nhớ được là buôn M’liêng hình thành từ khi nào. Già Y Đrỡng cũng chỉ nhớ là nghe ông ngoại kể tuổi của buôn mình phải 300 năm có lẻ.
Năm 1997, buôn M’liêng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chọn dự án bảo tồn, phục dựng buôn làng văn hoá cổ. Dự án nhằm bảo tồn và phục dựng những giá trị văn hóa vật thể, gồm phục dựng sáu ngôi nhà dài cổ bằng các loại vật liệu truyền thống như gỗ, mây, tranh, tre, nứa, với mức đầu tư từ 600-700 triệu đồng/nhà; xây dựng nhà văn hóa cộng đồng lớn, theo kiến trúc truyền thống bằng vật liệu dân gian kết hợp với các loại vật liệu hiện đại.
Đồng thời, dự án cũng nhằm bảo tồn và phục dựng các giá trị văn hóa phi vật thể gồm phục hồi các nghề truyền thống như đan lát, trồng cói dệt chiếu, dệt thổ cẩm, đánh cá trên hồ Lắk, rèn, mộc, gốm; phục dựng các lễ hội như lễ cúng bến nước, cúng lúa mới, cúng voi, thuần dưỡng voi rừng; dạy diễn tấu cồng chiêng, hát kể sử thi, dân ca, truyện cổ...
Trái với nhịp điệu cuộc sống chỉ cách chưa đến một km cuộc sống hiện đại của một vùng du lịch phát triển bậc nhất ở Đắk Lắk, với ánh sáng của chốn đô thị cùng những thứ văn hóa pha tạp, không gian của buôn M’liêng thanh bình, cổ kính như một Tây Nguyên của hàng trăm năm trước.
Nét đặc biệt dễ thấy ở buôn M’liêng là 100% gia đình ở đây còn giữ được những nếp nhà dài truyền thống của người M’nông. Hầu hết những nếp nhà dài truyền thống ấy được làm bằng thứ vật liệu khai thác từ rừng núi Tây Nguyên.
Già làng Y Đrỡng Bkrông tiếp khách bên bếp lửa bập bùng trên sàn ngôi nhà dài truyền thống với hai hàng cột gỗ làm từ cây sao, căm xe, cà chít được tạc thô, to đầy vòng tay một người ôm. Đây chỉ là một trong số hơn 100 ngôi nhà dài kiến trúc truyền thống của người M’nông của buôn M’liêng.
Mỗi ngôi nhà như vậy có chiều dài tối thiểu tới 30m, chia ra ít nhất năm gian, đủ cho ba gia đình nhỏ có thể sinh hoạt khá thoải mái. Để làm được một nhà dài phải tốn hàng trăm cây gỗ lớn; người ta phải mất nhiều năm trời vào rừng chọn cây to, làm lễ cúng thần rừng, hạ cây và dùng voi khỏe kéo cây rừng về buôn.
Rất nhiều gia đình còn giữ được ghế Kpan - nơi trang trọng để các nghệ nhân ngồi diễn tấu cồng chiêng trong các dịp lễ hội của người M’nông - với chiều dài hơn 20m, lòng ghế rộng hơn một mét; cùng nhiều chiêng cổ, ché cổ, trống làm bằng da hai con trâu lớn, trống da voi còn được lưu giữ.
Trong ngôi nhà của già làng Y Đrỡng vẫn còn lưu giữ ghế Kpan dài gần 30m, tám chiếc ché cổ, ba bộ chiêng quý truyền lại từ nhiều đời nay. Ông cho biết những thứ này hồi xưa giá trị bằng cả đàn trâu, mấy con voi đó. Chúng là vật thiêng, vật quý giá nhất của người M’nông.
Một bất ngờ khác, người dân trong buôn vẫn làm các nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm, mộc và đánh bắt cá trên hồ Lắk, dọc các con suối lớn theo luật tục... Dù trải qua nhiều biến động, bây giờ trong buôn đã không còn nhà nào có voi, nhưng không gian thiêng của buôn với những con suối, sông, bến nước, bến voi vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Người già trong buôn không ai nhớ được là buôn M’liêng hình thành từ khi nào. Già Y Đrỡng cũng chỉ nhớ là nghe ông ngoại kể tuổi của buôn mình phải 300 năm có lẻ.
Năm 1997, buôn M’liêng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chọn dự án bảo tồn, phục dựng buôn làng văn hoá cổ. Dự án nhằm bảo tồn và phục dựng những giá trị văn hóa vật thể, gồm phục dựng sáu ngôi nhà dài cổ bằng các loại vật liệu truyền thống như gỗ, mây, tranh, tre, nứa, với mức đầu tư từ 600-700 triệu đồng/nhà; xây dựng nhà văn hóa cộng đồng lớn, theo kiến trúc truyền thống bằng vật liệu dân gian kết hợp với các loại vật liệu hiện đại.
Đồng thời, dự án cũng nhằm bảo tồn và phục dựng các giá trị văn hóa phi vật thể gồm phục hồi các nghề truyền thống như đan lát, trồng cói dệt chiếu, dệt thổ cẩm, đánh cá trên hồ Lắk, rèn, mộc, gốm; phục dựng các lễ hội như lễ cúng bến nước, cúng lúa mới, cúng voi, thuần dưỡng voi rừng; dạy diễn tấu cồng chiêng, hát kể sử thi, dân ca, truyện cổ...
Nguồn: TTXVN