Non nước Việt Nam

Võ Nhất Nam với sự tích ngày giỗ Tổ mùng 5 Tết

Cập nhật: 09/01/2009 09:01:13
Số lần đọc: 1992
Hằng năm, đến ngày mùng 5 Tết, khi người dân cả nước hướng về lễ hội kỷ niệm ngày chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, những môn sinh của phái võ Nhất Nam lại kính cẩn dâng hương lên bàn thờ tổ môn phái.
Có lẽ là duy nhất trong làng võ cổ truyền, có một môn phái lấy ngày đại thắng giặc ngoại xâm làm ngày giỗ tổ. Sự tích này bắt đầu từ mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, khi 5 cánh quân của Hoàng đế Quang Trung tấn công đại phá quân Thanh.

Làng võ Hà Nội vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước xôn xao trước sự trình làng của một môn phái võ lạ, với một cái tên nghe cũng thực lạ - môn phái Nhất Nam. Khi ấy trong võ lâm có không ít người chạnh lòng vì cho cái tên ấy hẳn mang ý hợm, coi mình là nhất. Kỳ thực, chữ Nhất trong Nhất Nam chỉ bao hàm nghĩa rằng đây là môn võ thuần nhất của người Việt, không pha tạp, lai căng với võ học nước ngoài.

Suốt thập kỷ 80, môn phái này phát triển khá rầm rộ tại khu vực Hà Nội, Nghệ An và các tỉnh Bắc bộ. Hai tập sách Nhất Nam căn bản do Võ sư trưởng môn Ngô Xuân Bính biên soạn, xứng đáng là một công trình chuyên khảo, nghiên cứu về võ cổ truyền dân tộc. Cuốn sách đã được giải: “Sách thể thao có giá trị nhất, đẹp nhất” tại triển lãm sách của các NXB Thể dục thể thao các nước XHCN tổ chức tại Ba Lan tháng 6/1989 và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhưng rồi hiện nay, người yêu võ cổ truyền ít gặp lại những cuộc thượng đài của võ phái này với những tiếng hét đặc dị vang dội sàn đấu. Đi tìm lời giải mới thấy hết sự trầm luân của một di sản.

Nằm trên vùng đất tối cổ châu Ái, châu Hoan (Thanh Hoá, Nghệ An) địa linh nhân kiệt, từ xa xưa đã tồn tại một môn võ của người Việt cổ. Sự ra đời của phái võ ấy bắt nguồn từ cuộc chiến sinh tồn với muông thú, giặc giã của người dân địa phương. Toát lên qua các đường quyền, ngọn cước là tinh thần “nhại công”, có nghĩa là bắt chước cái tinh túy của muôn loài, như võ sư Ngô Xuân Bính đã giải thích: “Thuật biến tạo cái tinh của trời đất là Quyền. Muôn sinh mạnh bởi cái riêng, tính hấp lực và chi tồn cũng ở tại cái riêng, muôn vật hoá tồn cũng chính nhờ cái riêng”.

Từ cái ý ấy mà người xưa “bắt nhại” cái mạnh của thú, vật: Cái mềm dai của giống dây rừng; sắc bén của cật tre nứa; xù cứng gân guốc của cội mai; nhanh khéo của giống khỉ, vượn; quằn quại trói riết của rắn, trăn; dai dẳng lầm lỳ của gấu; hùng dũng vũ bão của hổ, voi; nét uyển chuyển mềm mại của báo, mèo; bất ổn của mây gió, bất dịch của núi... để sáng chế thành Võ.

Cùng với thời gian, lớp trước truyền lại lớp sau, qua kế thừa không ngừng nâng cao, sáng tạo, môn quyền tiền thân của võ Nhất Nam dần thành một dòng võ đặc dị, có tính quy mô và tổ chức cao với hệ thống môn công đồ sộ, toàn diện, từ quyền cước, binh khí đến công phu luyện nội, ngoại...

Võ Nhất Nam được đúc kết, sáng tạo dựa trên sự vận hành của khí huyết, những đặc điểm tâm- sinh lý và cơ chế vận động cơ bắp của con người, huy động tối đa sức mạnh của bản thân và lợi dụng sức mạnh của địch để đánh địch. Môn phái có các bài tập đặc thù, đòn thế có tính liên tục để luyện các môn công như tay xà, tay trảo, tay đao, tay quyền... hoặc đặc dị hơn là các bài “Ma quyền”, “Ảo quyền”, “Vân vũ quyền”. Về binh khí, ngoài các bài kiếm, côn, rìu, song nguyệt... còn có một môn binh khí đặc dị là “nhung thuật”, chuyên dĩ nhu chế cương, sử dụng dải lụa 2 đầu có vật nặng để tấn công với sức công phá mạnh và dễ dàng hoá giải, trói đoạt binh khí của đối phương. Nếu so sánh với võ Tàu, sẽ thấy có sự khác biệt rõ rệt. Nhất Nam là môn võ của dân Nam, với đặc điểm thể tạng nhỏ bé hơn người phương Bắc, nên tinh thần đối kháng dựa trên sự nhanh nhẹn, lấy tránh né, kéo tỳ, triệt lực, hấp lực để phản đòn vào các huyệt đạo trọng yếu như mắt, hạ bộ là chính, không chủ trương đối lực. Nguyên lý ấy chính là đúc kết tinh diệu của nghệ thuật quân sự: “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.

Sẽ là thiếu sót nếu bàn đến võ Nhất Nam mà quên không nhắc tới hệ thống lý luận về tâm pháp, yếu pháp làm nền tảng cho luyện tập, giao đấu và đối nhân xử thế của phái võ này. Các võ sư Việt cổ quan niệm võ thuật không phải là bạo lực, mà là Đạo tu thân. Nhờ luyện võ mà người học đạt đến chữ “tĩnh” trong tâm, bình đẳng, mà hoà đồng cùng thiên nhiên, trân trọng vạn vật. Thái độ ứng xử này là nền tảng của tinh thần thượng võ, nghĩa hiệp, yêu quê hương, con người, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.

Trong lịch sử, môn võ đã được một số vương triều phong kiến dùng để rèn quân, luyện tướng. Thời nhà Hồ, bởi hiệu quả sát thương rất cao nên võ công ấy được sử dụng ở chốn cung đình để bảo vệ vua chúa. Có dịp hành hương về nơi phát tích dòng võ, may gặp các bậc cao niên tiền bối của môn phái, bạn sẽ được nghe kể về một huyền tích lịch sử liên quan đến chiến công của các môn đệ phái Nhất Nam. Đó là trong chuyến hành quân ra Bắc diệt Thanh của Hoàng đế áo vải Quang Trung, khi qua đất Thanh - Nghệ, xa giá đã dừng bước để tuyển mộ nhiều võ sỹ của phái võ này vào cuộc tấn công thành Thăng Long. Và rồi trong những trận huyết chiến cuối cùng, nhiều nghĩa sỹ đã xông pha mũi tên hòn đạn, tận trung báo quốc. Ghi nhớ công lao vị liệt tổ liệt tông hy sinh vì nước, phái võ Nhất Nam ngày nay lấy ngày mùng 5 tháng giêng hằng năm (ngày chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa) làm ngày giỗ tổ môn phái.

Lịch sử môn phái cũng trải qua hồi “bĩ cực”. Khi lên ngôi, Gia Long đã truy sát những người từng cộng tác với nhà Tây Sơn. Hậu quả là nhiều võ đường đã bị đóng cửa, các võ sư bị giết hại. Nhiều dòng võ tạm lắng xuống, toả vào trong dân, tồn tại dưới dạng các gia phái. Họ Ngô Xuân ở thành Vinh là một trong gia phái hậu duệ của Nhất Nam ngày ấy. Trải qua bao biến động lớn lao của lịch sử dân tộc, di sản này dần dần thất truyền.

Cũng may, đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, có một cậu trò nghèo xứ Nghệ thi đỗ vào trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Học võ từ bé qua rèn giũa của ông nội và cha, tiếp kiến các bậc thầy trong môn, Ngô Xuân Bính đã mang theo dòng chảy âm ỉ mà mãnh liệt của một di sản để truyền bá, trước hết là cho các bạn học. Rồi ngày 23/10/1983, lần đầu tiên làng võ Hà Nội chứng kiến cuộc ra mắt tại Nhà thi đấu Trịnh Hoài Đức của một phái võ có tên Nhất Nam. Sau phần biểu diễn quyền cước và binh khí ảo diệu, các võ sinh đóng khố, mình trần thi đấu đối kháng trong tiếng hoan hô vang dậy của khán giả. Làng võ biết đến sự trở lại của võ Nhất Nam từ đây. Người đặt tên cho phái võ không tên vùng Thanh - Nghệ ấy là võ sư Ngô Xuân Bính - lúc này là giảng viên môn lý luận hội họa, Trường Cao đẳng sư phạm Nhạc, Họa T.Ư. Trong gần 10 năm cực thịnh, nhiều thế hệ học trò xuất sắc như Trần Nam Thắng, Dương Mạnh Hùng, Đào Hoàng Long, Trần Mạnh Hà... đã vững vàng trên các sàn đấu và trong sự nghiệp. Dương Mạnh Hùng, người nổi danh trong làng bóng đá với danh hiệu “Chiếc còi vàng” từng tâm sự: “điều góp phần làm nên một trọng tài “đạn bắn không thủng” chính là bởi tinh thần “liêm”, “chính” của người học võ Nhất Nam”.

Nhưng rồi vì những định kiến, đố kỵ mà môn phái này gặp phải sự “lạnh nhạt”, kể cả trong Liên đoàn Võ thuật. Một lần nữa võ Nhất Nam “lặn” vào dân gian, võ sư Bính cũng bỏ nghề dạy vẽ để bay sang Liên bang Nga mở võ đường. Trong khi tại nước ngoài, võ Nhất Nam phát triển mạnh, tham gia vào Liên đoàn Võ thuật thế giới, thì trong nước, nơi sinh ra phái võ, Nhất Nam chưa có được vị trí tương xứng.

Phải làm gì để không thất truyền một di sản văn hóa phi vật thể lớn lao đến thế? Mong một ngày trong thanh âm trầm hùng của hồi trống hội hướng tới kỷ niệm ngàn năm Thăng Long sẽ có sự trở lại của hậu duệ các chiến binh quả cảm đã góp phần làm nên một Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử.
Nguồn: ĐCSVN

Cùng chuyên mục

TIN NỔI BẬT