Non nước Việt Nam

Mùa xuân trảy hội núi Bà Ðen (Tây Ninh)

Cập nhật: 11/02/2009 13:02:06
Số lần đọc: 2043
Núi Bà Ðen là một quần thể di tích lịch sử văn hóa và danh thắng nổi tiếng của tỉnh Tây Ninh với hệ thống hàng trăm hang động và chùa chiền hình thành lâu đời, mang nhiều giá trị độc đáo về tự nhiên và nhân văn. Ðây là một trong những điểm đến thu hút đông khách tham quan, trảy hội đầu xuân của vùng Ðông Nam Bộ.

Nằm cách thị xã Tây Ninh 11km, quần thể di tích núi Bà Ðen trải rộng trên diện tích hơn 24 km² với cấu tạo địa chất gra-nít, gra-nô-đi-ô-nít  gồm ba ngọn núi: núi Bà 986m, núi Phụng 372m và núi Heo 335m. Ðứng từ xa nhìn lại, khu vực núi Bà Ðen có hình thù độc đáo, trông như một chiếc nón khổng lồ nằm úp giữa vùng đồng bằng phì nhiêu. Ðỉnh núi gần như quanh năm được bao phủ bởi màn mây trắng tựa tấm voan trắng nhẹ nhàng điểm xuyết vẻ đẹp huyền ảo của vùng danh thắng, nơi in đậm dấu tích của những huyền thoại thời khai hoang, mở đất. Hệ sinh thái trên núi khá phong phú, nhiều loài cây cỏ, nhiều loại gỗ quý hiếm cùng các loài động vật phong phú như: cheo, nai, thằn lằn, dơi và các loại chim. Núi có suối chảy róc rách và hàng trăm hang, động, chùa chiền, đền miếu. Các hang động trong khu vực núi Bà Ðen qua hàng trăm năm đã được xây dựng, cải biến thành những nơi linh thiêng thờ thần, thờ Phật như: hang Gió, chùa Hang, động Thanh Long, động Ông Hổ, Ông Tà, Ba Cô, Thiên Thai. Lên lưng chừng núi khoảng 350m, du khách có thể vào viếng và tham quan Linh Sơn Thiên Thạch động (Ðiện Bà), được xây dựng dựa vào thế núi từ một mái đá tự nhiên nhô ra thành am động. Bên trong có bàn thờ đặt hình tượng Bà Ðen khoác áo đỏ. Ðiện Bà là nơi thờ phụng chính gắn liền với lễ hội núi Bà Ðen cùng các chùa Hạ và chùa Trung. Gần đó, ở độ cao hơn về phía đỉnh núi là miếu Sơn Thần, từ đây, du khách được ngắm nhìn toàn cảnh hồ nước Dầu Tiếng, một công trình thuỷ lợi đẹp và lớn ở nước ta hiện nay. Trong quần thể núi Bà Ðen, còn có khu vực suối Vàng, còn gọi là "Ma Thiên Lãnh" nằm phía tây núi Phụng với hồ Chằm, đền thờ Ông Lớn Trà Vong và sân Quần Ngựa tạo thành khu di tích mang đậm nét tâm linh. Ðể lên núi, du khách phải đi theo một con đường quanh co, uốn lượn qua những dốc cao và ven triền núi, thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương mù, trải dài qua các địa danh gắn liền những sự tích, truyền thuyết huyền bí. Những sự tích này gần như hình thành cùng với sự định cư của các cộng đồng dân cư người Việt đã đến đây khai sơn phá thạch, sinh cơ lập nghiệp. Cùng với sự hình thành của các làng, các ấp là sự phát triển của tín ngưỡng Phật giáo hòa quyện tín ngưỡng bản địa đã tạo dựng hệ thống chùa chiền và các am, miếu trên núi. Một trong những huyền thoại được dân gian lưu truyền qua các thế hệ và góp phần tạo nên một vùng văn hóa tín ngưỡng linh thiêng là sự tích Bà Ðen hay Lý Thị Thiên Hương. Dù có nhiều dị bản khác nhau nhưng nội dung huyền tích đều là sự tôn vinh, tưởng nhớ của nhân dân về phẩm chất đạo đức của những người phụ nữ Việt Nam thủy chung, can đảm, kiên cường, không khuất phục trước các thế lực bạo tàn, xấu xa.  

 

Mỗi năm, vào dịp đầu xuân, quần thể khu danh thắng, di tích núi Bà Ðen thu hút hàng triệu lượt  khách trong nước và ngoài nước đến hành hương, tham quan, du ngoạn và dự lễ hội Xuân núi Bà. Lễ hội thường kéo dài suốt cả tháng Giêng âm lịch nhưng chính lễ Vía Bà là đêm 18 và ngày 19 tháng Giêng. Ngoài ra, còn một lễ Vía vào ngày mồng 6-5 âm lịch. Trước ngày chính lễ, những vị trụ trì Ðiện Bà tiến hành lễ "Mộc Dục" (Tắm Thánh) vào lúc nửa đêm, tức là lễ tắm Bà với ba lần khăn lau xông hương sen, lài, sứ, quế... do các lễ sĩ dâng lên. Lễ sĩ là những thiếu nữ được chia thành cặp trong các bộ xiêm y đẹp lộng lẫy, chân bước nhẹ, nhịp nhàng "đăng đài" theo bộ "chữ Tâm" trong tiếng nhạc lễ qua các làn điệu Xuân, Ðảo Nam Bộ. Lễ hội núi Bà Ðen không chỉ là sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn là sinh hoạt văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời cũng là nơi vui chơi, cắm trại, sinh hoạt truyền thống của thế hệ trẻ, bởi nơi đây cũng từng là căn cứ địa của huyện ủy Dương Minh Châu thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Và xa hơn nữa, núi Bà Ðen còn là biểu tượng của mảnh đất và con người Tây Ninh trong công cuộc khai hoang, mở cõi và kháng chiến chống thực dân Pháp giữ nước gắn với tên tuổi của Quan lớn Trà vong Huỳnh Công Giản, Tướng quân Võ Văn Oai, Trương Quyền, v.v.

 

Hiện nay, Khu du lịch danh thắng và di tích núi Bà Ðen đã có đường ô-tô được mở rộng đưa khách lên lưng chừng núi. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp, đường nội bộ được lát đá khang trang, các di tích thường xuyên được trùng tu tôn tạo và có nhiều công trình mới đưa vào phục vụ du khách như hệ thống xe điện cáp treo và máng trượt lần đầu có ở Việt Nam. Ðây là hệ thống cáp treo đầu tiên ở Việt Nam đã được Công ty Du lịch Tây Ninh đưa vào hoạt động phục vụ du khách vào năm 1998 với đoạn đường dài 1.225m, độ cao khoảng 600m trong thời gian 18 phút/lượt. Công trình đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục Việt Nam năm 2006 là Hệ thống cáp treo đầu tiên ở Việt Nam. Tất cả đã làm cho bộ mặt khu du lịch này ngày càng đổi mới và khởi sắc hơn. Năm 2002, hệ thống máng trượt mùa hè với kinh phí đầu tư hơn 25 tỷ đồng cũng được đưa vào phục vụ du khách nhằm giải quyết lượng khách tồn đọng ở hai nhà ga cáp treo, đồng thời tạo thêm những sản phẩm du lịch mới lạ để thu hút du khách mỗi khi có dịp lên núi. 

 

Có thể nói, cùng với lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam ở Châu Ðốc (An Giang), lễ hội xuân núi Bà Ðen (Tây Ninh) là một trong những nét đặc trưng của văn hóa dân gian Nam Bộ và là nơi trở về với cội nguồn, đời sống tâm linh, một điểm du lịch sinh thái, du lịch truyền thống cách mạng của dân tộc.

Nguồn: Báo Nhân Dân

Cùng chuyên mục

TIN NỔI BẬT